Phụ nữ có thai ≥ 13 tuần tuổi là đối tượng được tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19
Theo thông tin đăng tải trên Trung tâm kiểm soát bệnh tật CDC Hà Nội, bác sĩ Lê Huy Tuấn, Trưởng khoa Sức khỏe sinh sản, Trung tâm kiểm soát bệnh tật TP Hà Nội tổng hợp từ tài liệu của Bộ Y tế cho biết, đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả quốc gia trên thế giới, hiện nay đang tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng, nền kinh tế Việt Nam đang chịu nhiều tác động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các lĩnh vực.
Ngày 10/8/2021, Bộ Y tế đã ban hành quyết định số 3802/QĐ-BYT về việc hướng dẫn tạm thời khám sàng lọc trước tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19; ngày 18/8/2021, Bộ Y tế tiếp tục ban hành quyết định số 3982/QĐ-BYT về việc hướng dẫn tạm thời dự phòng và xử trí Covid-19 do chủng vi rút SARS- CoV-2 ở phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh.
Vi rút Corona có hình cầu với đường kính khoảng 125nm, có các protein bề mặt nổi lên hình gai. Vi rút chứa 4 protein cấu trúc chính là protein gai, protein màng, protein vỏ và nucleocapsid. Bên trong vỏ của virion là nucleocapsid sợi đơn dương, đối xứng xoắn ốc. Vi rút có RNA sợi đơn dương tính, không phân đoạn.
Đối với phụ nữ mang thai, cho đến thời điểm này, nhiều nghiên cứu cho thấy khả năng lây nhiễm vi rút SARS-CoV-2 qua bánh rau trong quá trình mang thai là rất thấp.
Các nghiên cứu từ Trung Quốc, Mỹ cho thấy phần lớn các mẫu xét nghiệm nước ối, máu cuống rốn, rau thai, dịch âm đạo và sữa mẹ của phụ nữ mang thai nhiễm Covid-19 cho kết quả âm tính với vi rút SARS-CoV-2. Đồng thời hầu hết kết quả xét nghiệm dịch mũi/họng hầu được lấy ngay sau sinh ở trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm Covid-19 cũng cho kết quả âm tính với vi rút này.
Đường lây truyền qua giọt bắn được cho là đường lây truyền chính khi trẻ tiếp xúc với người chăm sóc nhiễm SARS-CoV-2.
Ảnh hưởng của Covid-19 đối với phụ nữ mang thai và thai nhi
Các dữ liệu hiện nay cho thấy nguy cơ mắc bệnh thể nặng ở phụ nữ mang thai nhiễm Covid-19 có triệu chứng cao hơn so với nhóm phụ nữ không mang thai. Mặc dù nguy cơ mắc bệnh thể nặng thấp nhưng các dữ liệu hiện nay chỉ ra rằng nguy cơ nằm ở khoa chăm sóc tích cực, thở máy và hỗ trợ thông khí (ECMO) và tử vong ở phụ nữ mang thai nhiễm Covid-19 có triệu chứng cao hơn so với nhóm phụ nữ không mang thai có triệu chứng.
Đối với thai nhi, các nghiên cứu gần đây về COVID-19 cũng như những nghiên cứu trước đây về bệnh SARS-CoV và MERS-CoV cho thấy không có bằng chứng nào chứng minh có mối liên quan giữa những bệnh này và các dị tật bẩm sinh.
Tuy nhiên, cũng có bằng chứng cho rằng viêm phổi do vi rút ở phụ nữ mang thai có liên quan đến tăng nguy cơ sinh non, thai chậm phát triển và tử vong chu sinh...
Ảnh hưởng của Covid-19 đến trẻ sơ sinh
Nghiên cứu tổng hợp từ báo cáo khoa học ở nhiều quốc gia với gần 7500 trẻ em trong đó có 25 trẻ sơ sinh nhiễm SARS-CoV-2 cho thấy đa phần trẻ có triệu chứng vừa và nhẹ, khoảng 2% trẻ cần nhập vào đơn vị hồi sức tích cực và tỉ lệ tử vong là 0,08%.
Nghiên cứu tổng hợp từ 74 báo cáo trên 176 trẻ sơ sinh nhiễm SARS-CoV-2, có 5,1% trẻ cần hồi sức sau sinh, 38% trẻ được nhập vào đơn vị hồi sức tích cực, tuy vậy phần lớn những trẻ này bị cách ly theo quy trình mà không phải do bệnh nguy kịch cần chăm sóc tích cực. Thời gian trung bình nằm tại đơn vị hồi sức là 8 ngày. Không có tử vong nào được báo cáo là do Covid-19.
Trẻ sơ sinh nhiễm SARS-CoV-2 được báo cáo có thể có các triệu chứng sốt, li bì, ho, thở nhanh, thở gắng sức, ngưng thở, nôn, tiêu chảy và bú kém. Một số triêu chứng rất khó phân biệt với các bệnh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh như chậm hấp thu dịch phế nang, bệnh màng trong và nhiễm trùng sơ sinh.
Nghiên cứu ở thành phố New York trên 116 bà mẹ nhiễm SARS-CoV-2 và 120 trẻ sơ sinh của các bà mẹ này cho thấy tất cả trẻ đều có xét nghiệm SARS-CoV-2 trong vòng 24 giờ đầu sau sinh âm tính.
Có 82 trẻ được theo dõi đến 5-7 ngày tuổi, 68 trẻ được nằm chung phòng với mẹ. Tất cả bà mẹ đều cho con bú, 79 trẻ xét nghiệm vào ngày thứ 5-7 sau sinh và đều cho kết quả âm tính, 72 trẻ được xét nghiệm vào ngày 14 và kết quả cũng âm tính, không có trẻ nào có triệu chứng lâm sàng của Covid-19.
Chăm sóc thiết yếu sơ sinh sớm gồm da kề da và bú sữa mẹ được chứng minh là giảm tỷ lệ hạ thân nhiệt, hạ đường máu, suy hô hấp, nhiễm trùng sơ sinh, giảm sang chấn tâm lý, giảm tử vong và bệnh tật cho mẹ và trẻ. Đồng thời chưa có bằng chứng khoa học cho thấy việc cách ly mẹ con làm giảm nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 cho trẻ sơ sinh.
Khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới là duy trì cái ôm đầu tiên ngay sau sinh, chăm sóc sơ sinh thiết yếu sớm và bú mẹ hoàn toàn giúp giảm biến chứng bệnh tật và tử vong cho bà mẹ và trẻ em.
Chăm sóc thiết yếu sơ sinh sớm gồm da kề da và bú sữa mẹ được chứng minh là giảm tỷ lệ hạ thân nhiệt, hạ đường máu, suy hô hấp, nhiễm trùng sơ sinh, giảm sang chấn tâm lý, giảm tử vong và bệnh tật cho mẹ và trẻ. Đồng thời chưa có bằng chứng khoa học cho thấy việc cách ly mẹ con làm giảm nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 cho trẻ sơ sinh.
Khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới là duy trì cái ôm đầu tiên ngay sau sinh, chăm sóc sơ sinh thiết yếu sớm và bú mẹ hoàn toàn giúp giảm biến chứng bệnh tật và tử vong cho bà mẹ và trẻ em.
Phụ nữ có thai và cho con bú tiêm chủng Covid-19 như thế nào?
Các đối tượng tiêm được:
- Người trong độ tuổi tiêm chủng theo khuyến cáo trong hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất và không quá mẫn với hoạt chất hoặc với bất kỳ tá dược nào trong thành phần của vắc xin.
- Phụ nữ mang thai ≥ 13 tuần (riêng vắc xin Sputnik V không sử dụng đối với phụ nữ đang mang thai và cho con bú).
- Phụ nữ đang cho con bú.
Đối với phụ nữ mang thai ≥ 13 tuần cần giải thích lợi ích/nguy cơ và ký cam kết nếu đồng ý tiêm và chuyển đến cơ sở có cấp cứu sản khoa để tiêm.
Ngoài ra trong quá trình sàng lọc vẫn phải thận trọng đối những thai phụ hoặc bà mẹ cho con bú nếu:
- Có tiền sử dị ứng với các dị nguyên khác.
- Có bệnh nền, bệnh mạn tính.
- Có tiền sử giảm tiểu cầu và/hoặc rối loạn đông máu.
- Mất tri giác, mất năng lực hành vi.
- Phát hiện thấy bất thường dấu hiệu sống:
+ Nhiệt độ <35,50C và >37,50C.
+ Mạch: < 60 lần/phút hoặc > 100 lần/phút.
+ Huyết áp tối thiểu < 60 mmHg hoặc > 90 mmHg và/hoặc huyết áp tối đa < 90 mmHg hoặc > 140 mmHg hoặc cao hơn 30 mmHg so với huyết áp hàng ngày (ở người có tăng huyết áp đang điều trị và có hồ sơ y tế).
+ Nhịp thở > 25 lần/phút.
Phụ nữ có thai được khám sàng lọc và nếu đồng ý tiêm chủng sẽ được chuyển đến cơ sở có cấp cứu sản khoa để tiêm.
Các đối tượng trì hoãn tiêm chủng
- Có tiền sử rõ ràng đã mắc Covid-19 trong vòng 6 tháng.
- Đang mắc bệnh cấp tính.
- Phụ nữ mang thai dưới 13 tuần tuổi.
Các đối tượng không tiêm được
- Tiền sử rõ ràng phản vệ với vắc xin phòng Covid-19 cùng loại (lần trước).
- Có bất cứ chống chỉ định nào theo công bố của nhà sản xuất.
Khoảng cách giữa 2 mũi tiêm của một số loại vắc xin
Theo Bộ Y tế, khuyến cáo của nhà sản xuất cho thấy khoảng cách giữa 2 mũi tiêm của các loại vắc xin là khác nhau.
- Vắc xin Moderna: 4 tuần
- Vắc xin Pfizer: 3 tuần
- Vắc xin AstraZeneca: từ 8 - 12 tuần
- Vắc xin Sinopharm: 3 - 4 tuần
Tuổi thai theo quy định tại Quyết định số 4128/QĐ-BYT ngày 29/7/2016 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ Chăm sóc sức khỏe sinh sản: Tuổi thai tính từ ngày đầu của kỳ kinh cuối cùng, trong trường hợp thai phụ không nhớ ngày đầu của kỳ kinh cuối cùng thì tính dựa trên kết quả siêu âm chẩn đoán.