Ban ngày là con trai, đêm xuống là gái
Lộng lẫy trong bộ áo dài thướt tha, Hoài (25 tuổi, TPHCM) rạng rỡ đến dự một buổi tiệc của nhóm bạn đồng giới. Hoài cho biết, em nhận ra giới tính thật của mình khi bước vào tuổi dậy thì. Em chơi với các bạn gái như chị em thân thiết nhưng không thể thân mật đụng chạm, chỉ thật sự rung động trước những cái nhìn, cử chỉ của người con trai khác.
Nhưng em là con trai một trong nhà, cháu đích tôn của cả dòng họ, không ai cho phép em được sống với giới tính thật của mình. Em lén lút tìm hiểu và tham gia các nhóm LGBT trên mạng.
Tốt nghiệp ngành kế toán, hàng ngày em đóng thùng áo sơ mi, quần tây đi làm tại một công ty như mọi người con trai khác, chỉ có những lúc tụ tập với nhóm LGBT, em mới thật sự được là chính mình.
Chị Linh An xót xa kể lại câu chuyện của chính anh trai mình: “Anh tôi là con trưởng, lớn lên cũng bình thường như mọi người nhưng suốt mấy năm học phổ thông rồi đại học, anh không hề yêu ai, không dẫn một bạn gái nào về nhà.
Ba mẹ tôi cứ nghĩ là anh mải học, chưa tính chuyện yêu đương. Đến khi anh đi làm, ba mẹ giục anh lấy vợ, anh cứ ậm ừ không trả lời. Một lần vô tình cầm điện thoại của anh, tôi thấy loạt tin nhắn bay đến với nội dung kỳ quặc, toàn những cái nick đầy ẩn ý.
Tò mò, tôi mở ra xem thì choáng váng khi thấy đó là một ứng dụng kín dành cho dân gay. Hóa ra anh tôi là gay mà cả nhà không ai biết, thậm chí anh đã có người yêu trong nhóm đó. Tôi lỡ nói với mẹ, tiếp đó là những tháng ngày địa ngục trong nhà. Mẹ khóc lóc vật vã, chì chiết, trách móc anh. Ba thì coi như anh không tồn tại. Anh đi về như một cái bóng cho đến ngày bạn anh gọi điện báo, anh đã uống thuốc ngủ tự vẫn”.
Kể về câu chuyện của mình, Diệu Linh (TPHCM) nói bằng giọng chua xót: “Em vẫn là con gái, em thích tóc dài, thích điệu đà, nhưng em thích cả con gái chứ không thích con trai. Khi em nói với mẹ điều đó, mẹ gạt đi nói em nghĩ linh tinh, lớn lên sẽ khác. Mẹ đe em rằng nếu em vẫn còn nghĩ như thế, mẹ sẽ nhốt em vào bệnh viện tâm thần để chữa cho khỏi. Mẹ đâu biết em chỉ muốn được sống thật với mình, được là chính mình mà thôi”.
Đồng tính không phải là bệnh
Chia sẻ với những hành động của các ông bố, bà mẹ khi biết con mình là người đồng tính, chuyên gia tư vấn tâm lý Đinh Đoàn cho rằng, phần lớn phụ huynh khi phát hiện ra vấn đề này đều trải qua những cảm giác rất giống nhau: Sốc, cảm thấy giận dữ, mất mát, không thể chấp nhận được, và tìm mọi cách để thay đổi con mình kể cả việc sử dụng bạo lực.
Hầu hết những hành động này đều xuất phát từ việc hiểu biết chưa đầy đủ về cộng đồng LGBT. Họ cho rằng, con mình bị lôi kéo, a dua, đua đòi theo chúng bạn nên thường dùng các biện pháp cách ly con khỏi “bạn xấu”.
Chính những hành vi tiêu cực của cha mẹ đã khiến con cái rơi vào khủng hoảng khi không còn niềm tin, chỗ dựa từ gia đình. Nhiều người đã đuổi con ra khỏi nhà, chửi bới, miệt thị, thậm chí từ mặt không nhận con.
Trước thế kỷ 20, đồng tính được xem là một căn bệnh nhưng đến năm 1973, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ không còn xem đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần nữa. Năm 1990, WHO (Tổ chức Sức khỏe Thế giới) đã loại đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách các căn bệnh của loài người.
Theo những tổ chức này, đồng tính không phải là một căn bệnh mà là một xu hướng tính dục mang tính tự nhiên (cùng với song tính luyến ái và dị tính luyến ái).
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, đồng tính luyến ái là một ví dụ của một biến thể tự nhiên và bình thường ở tình dục loại người và không phải là nguồn gốc của những xúc động tâm lý tiêu cực. Và không có đầy đủ bằng chứng để chứng minh rằng việc sử dụng những biện pháp can thiệp tâm lý có thể thay đổi được thiên hướng tình dục.
Vì thế, các bậc phụ huynh khi biết con mình là người đồng tính nên bình tĩnh, tìm hiểu thông tin về con thật kỹ lưỡng và cùng chia sẻ để tìm hiểu những tâm sự của con thay vì việc áp đặt hay ép con thay đổi theo những mong muốn của bố mẹ.
Theo bà Nguyễn Vân Anh, Giám đốc Trung tâm CSAGA (Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng khoa học về giới - gia đình - trẻ vị thành niên), sở dĩ các bậc phụ huynh nghĩ con mình bị “lây” đồng tính là vì họ không có đủ kiến thức.
Xu hướng tình dục giống như một cái trời sinh ra, người ta không được lựa chọn xu hướng tình dục cho bản thân mình được, không có ai có thể lây nhiễm bởi ai về xu hướng tình dục được. Vì thế, trước tiên phụ huynh, thầy cô giáo phải có cái hiểu đúng, cái nhìn đúng về xu hướng tính dục, từ đó mới có được sự tôn trọng đối với xu hướng tính dục khác biệt.
Bác sĩ Nguyễn Thành Như cho biết, rất nhiều chuyên gia cho rằng, những người bị đồng tính ái là người bệnh. Lật lại hồ sơ nghiên cứu về giới tính trước đây, đồng tính luyến ái được xếp vào nhóm “lệch lạc tình dục” và cần chữa trị (theo bảng DSM - Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders - của Hội Tâm thần Mỹ). Đến năm 1973, nó lại được điều chỉnh và xếp vào nhóm “rối loạn định hướng tình dục”.
Mười năm sau nữa thì người ta lại chia đồng tính luyến ái thành 2 nhóm: Nhóm hài lòng với chính mình và nhóm không hài lòng với chính mình.
Các nhà chuyên môn cho rằng có thể chữa trị cho nhóm không hài lòng với chính mình để họ trở nên yêu người khác giới. Sau đó, do việc điều trị liên tục thất bại, các nhà khoa học nhận ra là mình đã sai lầm nên kể từ 1994, đồng tính luyến ái không còn bị coi là bệnh, không có tên trong bảng DSM nên không thể và không cần phải chữa trị.