Tỷ lệ đáp ứng của người bệnh khi sử dụng phương pháp kết hợp đa mô thức giúp giảm nguy cơ bệnh tiến triển và tử vong có thể lên đến hơn 70%.
Cải thiện sức khỏe ngoạn mục
Bản thân “sợ” bệnh viện, không thích uống thuốc nên khi phát hiện mắc ung thư thận ở giai đoạn cuối, ông D.T.Đ. (56 tuổi, TPHCM) có khối bướu quá lớn, khó điều trị. Trước đó 2 năm, bệnh nhân Đ. có biểu hiện tiểu máu, đau tức vùng hông lưng phải. Các bác sĩ chẩn đoán ông có khối ung thư thận giai đoạn IV, đường kính gần hơn 11cm, xâm lấn các cơ quan xung quanh, di căn phổi.
BS.CKII Nguyễn Phúc Nguyên - Trưởng khoa Ung bướu, Bệnh viện Bình Dân cho biết, qua hội chẩn, đánh giá khối bướu của bệnh nhân rất lớn, kích thước 112mm x 100mm, chiếm gần hết nhu mô thận phải, xâm lấn nhu mô gan, ung thư di căn phổi. Thời điểm hiện tại, phẫu thuật không thể đạt mục tiêu triệt căn.
Do đó, bệnh nhân Đ. được điều trị theo phác đồ kết hợp liệu pháp nhắm trúng đích và liệu pháp miễn dịch. Đây là phương pháp giúp giảm kích thước bướu, tăng khả năng phẫu thuật cắt bướu nguyên phát, kiểm soát các nốt di căn.
Sau 4 tháng, khối bướu thận của bệnh nhân giảm kích thước đáng kể. Kết quả chụp MSCT có cản quang ngực; bụng theo dõi mỗi 3 tháng cho kết quả đường kính bướu giảm dần từ gần 12cm còn 7cm. Bên cạnh đó, các tổn thương ở phổi và một số tổn thương cơ quan lân cận của thận đã biến mất hoàn toàn. Lúc này, bệnh nhân Đ. được phẫu thuật, loại bỏ hoàn toàn khối bướu.
Là bác sĩ phẫu thuật chính ca cắt khối bướu của bệnh nhân Đ., TS.BS Phạm Phú Phát - Trưởng khoa Niệu A (Bệnh viện Bình Dân, TPHCM) nhận định, nhờ điều trị bằng liệu pháp miễn dịch và trúng đích, khối bướu thận gom nhỏ gần một nửa, các nốt di căn phổi biến mất.
Nếu chỉ nhìn trên hình ảnh học ngay trước lúc phẫu thuật mà không biết về tiền căn của người bệnh, các bác sĩ có thể đánh giá đây là một bướu ở giai đoạn T1 (ung thư thận giai đoạn sớm). Thậm chí, có thể nghĩ đến việc cắt bán phần để bảo tồn chức năng thận. Thực tế, nhờ phác đồ điều trị kết hợp, ung thư của bệnh nhân Đ. đã “hạ giai đoạn” từ giai cuối xuống giai đoạn sớm, tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật.
Đáng chú ý, các bác sĩ không phải truyền máu cho bệnh nhân Đ. trong gần 4 giờ phẫu thuật. Sau phẫu thuật, bệnh nhân Đ. hồi phục nhanh, được rút ống dẫn lưu ở ngày thứ 3, xuất viện ở ngày hậu phẫu thứ 5. Bệnh nhân Đ. tiếp tục điều trị thêm khoảng 6 tháng thuốc để hoàn tất liệu trình.
Tỷ lệ kiểm soát bệnh gần 90%
Theo BS Phát, phác đồ phối hợp thuốc trúng đích và thuốc miễn dịch trong điều trị ung thư thận có tỷ lệ kiểm soát bệnh cao, gần 90%. Do đó, bệnh nhân thường ăn ngon, ngủ ngon và thậm chí tăng cân trong quá trình điều trị. Ngoài ra, phác đồ điều trị đa mô thức với các thuốc mới, kết hợp với phẫu thuật thành công, mang lại hy vọng sống rất lớn cho bệnh nhân.
Hiện nay, hội chẩn trong điều trị đa mô thức là quy trình tiêu chuẩn trong chẩn đoán và điều trị ung thư, được chứng minh giúp cải thiện kết quả điều trị và đem lại chất lượng cuộc sống tốt cho người bệnh. Quy trình được thực hiện với sự tham gia của đa chuyên khoa, gồm: Ngoại tiết niệu, Nội thận, Ung bướu, Lồng ngực - Mạch máu, Gây mê Hồi sức, Chẩn đoán Hình ảnh, Giải phẫu bệnh, Nội tim mạch.
Liệu pháp miễn dịch (immunotherapy) là liệu pháp giúp hệ miễn dịch tự nhiên của cơ thể chống lại tế bào ung thư. Thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch (Immune Checkpoint Inhibitors) giúp hệ miễn dịch nhận diện và tấn công tế bào ung thư hiệu quả hơn. Liệu pháp nhắm trúng đích (targeted therapy) là sử dụng thuốc nhắm vào những phân tử chuyên biệt mà tế bào ung thư cần để sinh tồn và lan rộng.
Liệu pháp miễn dịch và liệu pháp nhắm trúng đích là phương pháp điều trị tiên tiến, ít tác dụng phụ, mang lại hiệu quả điều trị cao cho người bệnh ung thư thận giai đoạn muộn. Người bệnh thường ít gặp các tác dụng phụ như nôn ói, rụng tóc, ít nguy cơ giảm tiểu cầu, bạch cầu và không đau.
“Liệu pháp miễn dịch được Bộ Y tế Việt Nam cấp phép trong điều trị nhiều bệnh ung thư, nhưng hiện nay chưa được bảo hiểm y tế chi trả. Hiện nay, thuốc miễn dịch Pembrolizumab có trong chương trình điều trị người bệnh ung thư, trong đó có ung thư thận. Quy trình hội chẩn và điều trị đa mô thức đòi hỏi đa chuyên khoa với trình độ chuyên môn cao. Tại Việt Nam hiện chỉ có một số trung tâm có thể áp dụng quy trình này”, BS Phát cho hay.
BS Phát lưu ý thêm, để phát hiện sớm và phòng ngừa ung thư thận, người có yếu tố nguy cơ cao đối với bướu thận nên đi tầm soát sức khỏe mỗi năm ít nhất một lần. Cụ thể, người có tiền sử gia đình mắc ung thư thận; mắc hội chứng di truyền liên quan đến ung thư thận như bệnh Von Hippel-Lindau, hội chứng Birt-Hogg-Dubé, ung thư biểu mô tế bào thận nhú di truyền; mắc bệnh thận giai đoạn cuối hoặc chạy thận nhân tạo dài hạn; từng được chẩn đoán ung thư thận hoặc một số loại ung thư nhất định như ung thư bàng quang, nhất là người hút thuốc lá; tiếp xúc lâu dài với các chất độc như trichloroethylene hoặc cadmium; hút thuốc lá nhiều, tiểu máu, đau hông lưng dai dẳng, giảm cân không rõ nguyên nhân, mệt mỏi, thiếu máu hoặc sờ thấy khối cứng vùng bụng.
“Đối với những người có nguy cơ cao, nội dung sàng lọc có thể bao gồm siêu âm bụng, trong trường hợp có chỉ định có thể chụp CT hoặc MRI bụng, xét nghiệm nước tiểu để tìm tế bào máu hoặc các tế bào lạ, xét nghiệm di truyền nếu có tiền căn gia đình mắc ung thư thận. Khi người bệnh có nguy cơ hoặc có dấu hiệu có thể mắc bệnh, cần đến ngay cơ sở y tế chuyên khoa để được thăm khám và điều trị sớm nhất”, BS Phát khuyến cáo.
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Ung thư toàn cầu GLOBOCAN 2022, tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng 2.246 ca mắc mới ung thư thận, xếp thứ 17 trong số các ung thư thường gặp. Theo thống kê của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, với trường hợp ung thư thận giai đoạn cuối, tỷ lệ sống trong 5 năm tối đa chỉ khoảng 15%. Ung thư thận không đáp ứng với các hóa chất điều trị thông thường.