Hội thảo khoa học “Vai trò lịch sử của Thái sư Lưu cơ”

GD&TĐ - Ngày 15/5, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long Hà Nội và Hội đồng Lưu tộc Việt Nam đồng tổ chức Hội thảo khoa học có chủ đề “Vai trò lịch sử của Thái sư Lưu Cơ”.

Các đại biểu chủ trì, và phát biểu tham luận tại Hội thảo.
Các đại biểu chủ trì, và phát biểu tham luận tại Hội thảo.

Vị tướng văn võ song toàn

Hội thảo là dịp để ghi nhận đầy đủ hơn công trạng một Danh nhân lịch sử, có nhiều công lao to lớn với dân tộc trải qua 3 triều đại: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và nhà Lý.

Báo cáo đề dẫn Hội thảo, TS. Nguyễn Việt đã ôn lại sự nghiệp và thân thế của Thái sư Lưu Cơ qua nhiều mốc thời gian. Trong đó, nhắc lại những thời khắc xưa để thầm khâm phục và biết ơn vị Đô Hộ Phủ Thái sư mang họ Lưu tên Cơ đã tổ chức dân và binh Đô Hộ Phủ giữ gìn, sửa sang toà thành từ năm 971, để 40 năm sau lọt mắt, thỏa chí rồng bay của vị Hoàng Đế họ Lý đầu tiên chọn làm đất “Thượng đô Kinh sư mãi mãi muôn đời”.

Theo TS Nguyễn Việt, sinh thời Lưu Cơ là một người con hiếu thảo. Ông vốn là con cầu tự của vợ chồng ông Lưu Kỳ và bà Lê Thị Phương vùng Đại Hoàng, Tri Hối (Gia Viễn, Ninh Bình hiện nay). Thuở nhỏ Lưu Cơ theo học thầy ở Tri Hối.

Khi cha mẹ mất ông đã thụ tang 3 năm trước khi rời nhà tham gia đội quân của người đồng hương Đinh Bộ Lĩnh. Ông nhanh chóng trở thành một vị tướng văn võ song toàn, cánh tay phải của Đinh Bộ Lĩnh.

“Nghiên cứu về đời sống tinh thần chỉ rõ trong ông thấm đậm những tư tưởng đạo lý tích cực nhất của cả Phật, Đạo và Nho giáo đương thời.

Thần tích đình làng Đại Từ để lại hai hình ảnh cao đẹp trong di chúc của Lưu Cơ: 1- Chỉ xin được cũng chạy với hai món ưa thích là đậu phụ và rau cần. 2- Xin được dùng đất cấp phong và đất công chia đều cho dân làng như tiền thân của chính sách “quân điền" thời Hậu Lê...”, TS Nguyễn Việt trình bày.

Thành Đại La – Kinh thành Thăng Long xưa (Ảnh TL).

Thành Đại La – Kinh thành Thăng Long xưa (Ảnh TL).

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Thái sư Lưu Cơ là một trong những vị khai quốc công thần nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp, thống nhất đại loạn 12 sứ quân thế kỷ X trong lịch sử Việt Nam.

Đồng thời, là người cai quản Hoàng Thành Thăng Long, có công tu sửa thành quay về hướng Nam (hướng về kinh đô Hoa Lư thay vì hướng về phương Bắc như chính quyền đô hộ đã làm) trước khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Kinh thành Thăng Long.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, là Đinh Tiên Hoàng đế. Tiếp theo, năm 971, Nhà vua phong quan trong triều, lấy Nguyễn Bặc làm Định Quốc công, Đinh Điền là Ngoại giáp, Lê Hoàn làm Thập đạo Tướng quân và Lưu Cơ là Đô hộ Phủ Sĩ sư.

Tượng đồng Thái sư Lưu Cơ thờ ở Đình Đại Từ, xã Đại Đồng (Văn Lâm, Hưng Yên).

Tượng đồng Thái sư Lưu Cơ thờ ở Đình Đại Từ, xã Đại Đồng (Văn Lâm, Hưng Yên).

Theo Việt sử lược thì cũng năm đó, Đinh Tiên Hoàng phong người đầu tiên là Lưu Cơ làm Thái sư ở Đô hộ phủ cai quản thành Đại La, thủ phủ của Giao Châu (Bắc Bộ ngày nay).

Vai trò này của Lưu Cơ được đánh giá là sánh ngang hàng Phó Vương, giúp Đinh Tiên Hoàng cai quản phần đất Giao Châu trọng yếu và giàu tiềm năng kinh tế nhất của nước Đại Cồ Việt đương thời.

Vai trò lịch sử của Thái sư Lưu Cơ

Trong những năm gần đây, nhất là dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, các nhà khoa học, chuyên gia và các nhà nghiên cứu chuyên ngành, trong đó có Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Hội đồng Lưu Tộc Việt Nam, đã nghiên cứu bổ sung và tổng hợp tư liệu sâu hơn. Nhờ đó khẳng định những công lao đóng góp của Thái sư Đô hộ phủ Lưu Cơ.

Sự nghiệp, vai trò lịch sử và công tích của vị khai quốc công thần Lưu Cơ gắn với 3 sự kiện quan trọng của ba triều đại: nhà Đinh, Tiền Lê và nhà Lý.

GS. TSKH. Vũ Minh Giang - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phát biểu.

GS. TSKH. Vũ Minh Giang - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phát biểu.

Theo GS. TSKH. Vũ Minh Giang - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Thái sư Lưu Cơ có công lao giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, lập nên nước Đại Cồ Việt, nhà nước phong kiến độc lập, tự chủ đầu tiên của nước ta từ thế kỷ X.

Điển hình là Tướng quân Lưu Cơ được Đinh Bộ Lĩnh cử quản lĩnh 3.000 binh mã đóng quân tại trang Đại Từ, huyện Tế Giang, phủ Thuận An, Vũ Ninh (nay là thôn Đại Từ, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên).

Dân làng Đại Từ đã ủng hộ, theo Lưu Cơ bình định sứ quân Lý Lãng Công (Lý Khuê), cát cứ tại huyện Siêu Loại, nay là Thuận Thành, Bắc Ninh. Sau này Ngài đã ban đất quan điền cho dân làng Đại Từ. Lý lịch di tích cấp tỉnh đình Đại Từ và đình phả đã bổ sung cho chính sử về chiến công này.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Thái sư Lưu Cơ là vị quan đầu triều trông coi hình án, được đánh giá vai trò của một Phó Vương. Khi Đinh Bộ Lĩnh xưng đế vẫn giữ tên "Đô hộ phủ" của thành Đại La.

Vì vậy, khi Lưu Cơ được giao làm Đô hộ phủ, nhiều người dễ nghĩ đó vẫn là An Nam Đô hộ phủ thời Bắc thuộc cho nên khi nghĩ đến Lưu Cơ dễ liên tưởng đến ý "Bắc thuộc"... Thực tế thành Đại La - Đô hộ phủ đã vắng chủ từ khi Ngô Quyền đánh bại Kiều Công Tiễn năm 937 đến khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi chọn kinh đô ở Hoa Lư năm 968.

Còn theo cuốn “Hà Nội thời tiền Thăng Long” của TS. Nguyễn Việt - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á, do tình thế phải trụ lại Hoa Lư hiểm yếu, nên toàn bộ Giao Châu, vua Đinh Tiên Hoàng trao gửi ở Lưu Cơ với chức quan Thái sư Đô hộ phủ.

Ngài cai quản "Vựa lúa lớn nhất, cũng là kho người, kho của ở Lĩnh Nam là Giao Châu” (gồm toàn bộ đồng bằng Bắc bộ của nước ta) liên tục 40 năm (971 - 1010), xuyên suốt 3 triều đại phong kiến nhà Đinh, Tiền Lê và đầu nhà Lý. Thời Tiền Lê, Ngài Lưu Cơ vẫn cai quản Giao Châu và đã huy động sức của, sức người của Giao Châu cho vua Lê Đại Hành đánh tan quân Tống xâm lược năm 981.

Cũng theo nghiên cứu "Thái sư Đô hộ phủ Lưu Cơ, người trao chìa khoá thành Đại La cho Lý Công Uẩn" của TS. Nguyễn Việt, trong quá trình cai quản thành Đại La, Thái sư Đô hộ phủ Lưu Cơ đã cho xây dựng lại, cải tạo thành Đại La từ một toà thành Bắc thuộc trở thành một toà thành của Đại Cồ Việt trù phú, vững mạnh đủ điều kiện tiên quyết cho Lý Công Uẩn thực hiện quyết định lịch sử dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long.

Thành Đại La vốn có hướng trục chính, dinh thự và công sở hướng về phương bắc. Phủ Thái sư Lưu Cơ không thể dùng nguyên thành Đại La cũ của Cao Biền, mà phải quay tất cả về hướng nam, tức là chầu về kinh đô Hoa Lư của Đại Cồ Việt.

Những sửa sang cải tạo này vẫn được lưu giữ trong tầng văn hoá của Hoàng thành Thăng Long, nhờ khảo cổ đã phát hiện khá nhiều gạch ngói thời Hoa Lư, như gạch "Đại Việt quốc quân thành chuyên" và "Giang Tây quân".

Theo cuốn “Bát Tràng - Làng nghề, Làng văn” (Nxb. Hà Nội, 2013; tr.52 và 292), công cuộc cải tạo Thành Đại La cũng liên quan đến việc Lưu Cơ đưa dân nghề gốm từ vùng Bồ Bát, xã Bạch Liên, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình ra làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội nên Thái sư Lưu Cơ được thờ là Thành hoàng làng Bát Tràng - Thánh cả Lưu Thiên Tử đại vương.

Toà thành Đại La khi trở thành Kinh đô Thăng Long của vua Lý Thái Tổ vào tháng 7 năm 1010 đã là một kinh đô Đại Cồ Việt được chuẩn bị điều kiện hoàn tất, được ghi nhận là công lao của Thái sư Lưu Cơ...

Tại Hội thảo khoa học “Vai trò lịch sử của Thái sư Lưu cơ”các đại biểu đã được nghe nhiều than luận, báo cáo mở rộng hơn nhằm đánh giá ý nghĩa lịch sử gắn với sự kiện thống nhất đất nước tạo lập nhà nước độc lập đầu tiên sau nhiều trăm năm đô hộ của ngoại bang: Quốc gia Đại Cổ Việt. Sự nghiệp đó của Đinh Tiên Hoàng Đế không thể tách rời những cận thần quan trọng trong nhóm trẻ trâu Cờ Lau” mãi lưu truyền trong dân gian, mà Lưu Cơ là một nhân vật đứng dầu.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ