Giáo dục nghề nghiệp trong kỷ nguyên mới: Danh chính, ngôn mới thuận

GD&TĐ - Trong bối cảnh giáo dục cả nước đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, giáo dục nghề nghiệp không thể đứng ngoài cuộc.

Sinh viên Trường Cao đẳng Dược Hà Nội trong giờ thực hành chuyên ngành điều dưỡng. Ảnh: NTCC
Sinh viên Trường Cao đẳng Dược Hà Nội trong giờ thực hành chuyên ngành điều dưỡng. Ảnh: NTCC

Để hòa vào dòng chảy chung, ngoài nỗ lực nội tại, nhiều ý kiến cho rằng, điều cần nhất lúc này là sự đồng bộ về hành lang pháp lý. Cụ thể, Luật Giáo dục và Luật Giáo dục nghề nghiệp cần được sửa đổi, tích hợp và mang tính liên thông.

Ông Nguyễn Thế Lực - Chủ tịch Hội đồng quản lý Viện Khoa học, Công nghệ và Giáo dục Việt Nam; Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Dược Hà Nội: Tạo hành lang pháp lý tốt nhất

danh-chinh-ngon-moi-thuan-2.jpg
Ông Nguyễn Thế Lực.

Luật Giáo dục nghề nghiệp ra đời nhằm thể chế hóa Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Đồng thời giúp phân luồng hệ thống giáo dục nghề nghiệp phát triển rõ ràng hơn, chất lượng đào tạo nghề chuyển biến tốt hơn và dần cụ thể hóa nhiệm vụ chính là nâng cao tay nghề của người lao động, từ đó tăng năng suất lao động.

Luật cũng trao quyền tự chủ cho các trường trong việc xây dựng chương trình, tổ chức đào tạo, tuyển sinh linh hoạt và tăng cường gắn kết với doanh nghiệp…

Tuy nhiên, cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn gặp không ít khó khăn trong liên thông với các trình độ khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, như liên thông trình độ đại học do khác nhau về chuẩn đầu ra, khác nhau về phương thức đào tạo.

Trong khi giáo dục nghề nghiệp đề cao thực hành, giáo dục đại học lại có tính học thuật cao hơn. Vì vậy, để sinh viên tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp liên thông được giáo dục đại học phải học bổ sung nhiều kiến thức, dẫn đến động lực học tập ở giáo dục nghề nghiệp giảm. Triển khai tuyển sinh, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học hiện nay cũng không cùng chung một hệ thống.

Việc chuyển giáo dục nghề nghiệp về Bộ GD&ĐT quản lý là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm tạo ra một hệ thống quản lý có tính đồng bộ trong đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân. Theo tôi, để giáo dục nghề nghiệp phát triển mạnh mẽ và hòa vào dòng chảy hệ thống giáo dục cả nước chúng ta cần lưu ý một số điểm:

Thứ nhất: Tạo hành lang pháp lý tốt nhất để phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong giáo dục nghề nghiệp.

Thứ hai: Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và chiến lược chuyển đổi số quốc gia và thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, Luật cần bổ sung, điều chỉnh để phù hợp và thích ứng cao trong kỷ nguyên số, cụ thể như: Ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý hệ thống giáo dục nghề nghiệp và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp (quản trị các trường, chương trình đào tạo…), đồng thời trang bị hệ thống hạ tầng số phục vụ cho nhiệm vụ chuyển đổi số toàn diện.

Thứ ba: Luật Giáo dục nghề nghiệp cần hỗ trợ phân luồng tuyển sinh từ học sinh đang học trên ghế nhà trường, để cân bằng công tác đào tạo giữa giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, đảm bảo công tác đào tạo nguồn nhân lực đúng và đủ phục vụ cho công tác phát triển đất nước.

Ông Trần Anh Tuấn - Phó Chủ tịch Hội Giáo dục nghề nghiệp TPHCM: Gắn đào tạo với sử dụng và việc làm

danh-chinh-ngon-moi-thuan-3.jpg
Ông Trần Anh Tuấn.

Theo tôi, xu thế phát triển của xã hội, các trường đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học để đáp ứng theo nhu cầu xã hội, tạo cơ sở gắn đào tạo với sử dụng và việc làm.

Sự thay đổi tích cực về nhận thức và các giải pháp đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo gắn với sử dụng lao động, cân đối theo trình độ nghề, nhu cầu ngành nghề để thực hiện chuyển dịch kinh tế, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thúc đẩy nguồn nhân lực đặc biệt đối với thanh niên về tự học tập, nâng cao trình độ nghề và các kỹ năng nghề.

Hiện nay, vấn đề tư vấn hướng nghiệp được Đảng, Nhà nước và các ngành, cấp đặc biệt quan tâm. Tại TPHCM, những năm gần đây, hoạt động tư vấn hướng nghiệp đã và đang tác động đến xã hội, ảnh hưởng đến nhận thức, định hướng cho học sinh THPT, THCS chọn các ngành nghề phù hợp với sở thích và khả năng của bản thân, không chọn ngành học theo đám đông; thay đổi dần nhận thức phải đậu đại học hoặc cao đẳng thì mới thành công.

Tuy nhiên, chưa có biện pháp thật sự hiệu quả cao nhằm thực hiện chủ trương phân luồng học sinh phổ thông sau THCS và THPT, công tác giáo dục hướng nghiệp chưa được đẩy mạnh nên không thu hút được nhiều học sinh vào các loại hình đào tạo nghề nghiệp. Bên cạnh đó, chưa có cơ chế, chính sách đồng bộ của Nhà nước về việc gắn kết đào tạo với doanh nghiệp; cũng như chưa có sự quan tâm, tham gia tích cực vào quá trình đào tạo của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nên chưa tạo được cầu nối giữa đào tạo và sử dụng.

Theo tôi, cần có một số giải pháp để giáo dục nghề nghiệp có thể phát triển vững mạnh sau khi thống nhất quản lý.

Thứ nhất, tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh liên kết, hợp tác đồng bộ các hoạt động hướng nghiệp, tuyển sinh, chính sách phân luồng học sinh sau THCS, đào tạo gắn kết thực hành và nhu cầu sử dụng lao động.

Đối với cơ quan quản lý Nhà nước, tạo điều kiện và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư công nghệ; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào đào tạo nghề, hỗ trợ công tác giáo dục nghề nghiệp. Tạo mối liên kết chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp, cần tập trung gắn kết hoạt động đào tạo của nhà trường với sản xuất của doanh nghiệp thông qua các mô hình liên kết đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp, hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo tại các trường.

Ngoài ra, có thể đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để chia sẻ các nguồn lực chung, từ đó hai bên cùng chủ động nắm bắt và đón đầu các nhu cầu của thị trường lao động.

Thứ hai, tập trung xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách phát triển giáo dục nghề nghiệp phù hợp với xu thế hội nhập; hoàn thiện quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp; nâng cao chất lượng dạy nghề, tiếp cận các chuẩn khu vực và thế giới. Đồng thời, thúc đẩy sự hình thành, phát triển hệ thống chuyển đổi tín chỉ, thực hiện công nhận văn bằng và chuyển đổi tín chỉ giữa các nước trong khu vực ASEAN và thế giới.

Thứ ba, hoàn thiện hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực, thông tin thị trường lao động của quốc gia, từng tỉnh, thành phố gắn kết với nhà trường và doanh nghiệp để thông tin định hướng xã hội; tham gia vào thị trường lao động.

Thứ tư, đầu tư phát triển tổ chức chuyên nghiệp để mở rộng và toàn diện quy mô hoạt động hướng nghiệp đối với học sinh các trường THCS, THPT. Tăng cường thông tin định hướng xã hội, không nên chú trọng học nghề theo giá trị bằng cấp; tham gia vào thị trường lao động là năng lực hành nghề, chọn nghề học theo năng lực, điều kiện và xu hướng nhận diện thị trường lao động.

TS Phạm Kim Thư - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Hữu Nghị (Nghệ An): Thiếu chính sách khuyến khích và hỗ trợ người học nghề

danh-chinh-ngon-moi-thuan-4.jpg
TS Phạm Kim Thư.

Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014 là bước tiến quan trọng trong thiết lập khung pháp lý cho hệ thống giáo dục nghề nghiệp Việt Nam phát triển, tạo nền tảng cho hệ thống đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp phục vụ sản xuất phát triển kinh tế - xã hội nâng tầm và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên để giáo dục nghề nghiệp thực sự trở thành hệ thống đào tạo mở, thông thoáng, linh hoạt đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực trong kỷ nguyên mới thì còn nhiều rào cản cần tháo gỡ.

Luật Giáo dục và Luật Giáo dục nghề nghiệp chưa đồng bộ, gây khó khăn trong tổ chức chương trình đào tạo, liên thông trình độ, cấp văn bằng và chuẩn đầu ra. Điều này khiến nhiều cơ sở lúng túng trong triển khai, đặc biệt khi muốn kết nối đào tạo giữa trung cấp, cao đẳng với bậc đại học.

Thêm vào đó, các quy định về tài chính, đầu tư, tuyển sinh hay cơ chế tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự rõ ràng, thiếu chính sách khuyến khích và hỗ trợ người học nghề, khiến sức hút của giáo dục nghề nghiệp đối với học sinh phổ thông còn hạn chế.

Về kiểm định chất lượng, đây cũng là điểm nghẽn lớn. Hiện nay, hệ thống kiểm định trong giáo dục nghề nghiệp còn rời rạc, thiếu liên thông với hệ thống kiểm định chung của ngành Giáo dục. Các bộ tiêu chí riêng biệt, thiếu tổ chức kiểm định độc lập có năng lực; quy trình kiểm định còn nặng hình thức, chưa trở thành công cụ cải tiến thực chất cho các cơ sở. Đặc biệt, kết quả kiểm định hiện nay chưa được gắn với phân tầng, xếp hạng hay phân bổ nguồn lực, nên chưa tạo được động lực thay đổi.

Việc chuyển hệ thống giáo dục nghề nghiệp về Bộ GD&ĐT là bước đi đúng đắn để thống nhất quản lý giáo dục. Nhưng muốn giáo dục nghề nghiệp “chính danh” và hòa vào dòng chảy chung, thì Luật Giáo dục và Luật Giáo dục nghề nghiệp cần được sửa đổi đồng bộ, tích hợp và mang tính liên thông. Cụ thể, cần:

Thống nhất khung hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó giáo dục nghề nghiệp là một nhánh chính thức, có vị trí rõ ràng từ sơ cấp đến cao đẳng và có lộ trình học tiếp lên đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Công nhận đầy đủ giá trị văn bằng giáo dục nghề nghiệp không phân biệt so với hệ đại học chính quy. Sửa đổi, tích hợp hệ thống kiểm định chất lượng, để giáo dục nghề nghiệp cùng sử dụng một hệ thống kiểm định quốc gia, có tiêu chuẩn riêng nhưng đảm bảo khả năng đối sánh, minh bạch và khách quan.

Hoàn thiện các chính sách tài chính, đầu tư, trong đó có chính sách học bổng, miễn giảm học phí và hỗ trợ học sinh học nghề như với sinh viên đại học. Tăng quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhất là trong xây dựng chương trình, hợp tác doanh nghiệp, mở ngành theo nhu cầu thị trường.

Chỉ khi hành lang pháp lý được đồng bộ và kiểm định chất lượng được cải cách theo hướng thực chất, giáo dục nghề nghiệp mới thực sự trở thành lựa chọn chính danh, có giá trị và hấp dẫn đối với người học trong bối cảnh chuyển đổi số và phát triển kinh tế hiện nay.

Ông Mai Hoàng Lộc - Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp Nguyễn Tất Thành (Gò Vấp, TPHCM): Xác lập lại vị thế cho giáo dục nghề nghiệp

danh-chinh-ngon-moi-thuan-5.jpg
Ông Mai Hoàng Lộc.

Theo tôi, hiện nay, trong hành trình chuyển mình của giáo dục cả nước, cụm từ “đổi mới sáng tạo” và “chuyển đổi số” không còn là khẩu hiệu mà trở thành một yêu cầu sống còn. Có thể nói, giáo dục nghề nghiệp dù không hào nhoáng như bậc đại học nhưng không thể và không nên đứng ngoài cuộc.

Tôi thường nói với đồng nghiệp và học sinh trong trường rằng, giáo dục nghề nghiệp giống như “nền móng” của một ngôi nhà. Móng không chắc thì nhà khó vững. Mà muốn chắc, bản thân các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải đổi mới từ gốc. Thời gian qua, Trường Trung cấp Nguyễn Tất Thành đã thực hiện nhiều bước đi cụ thể.

Chúng tôi thiết kế lại chương trình đào tạo, đưa yếu tố chuyển đổi số và khởi nghiệp vào từng môn học. Không giảng dạy lý thuyết suông mà tổ chức cho các em triển khai ý tưởng thật, mô hình thật. Thậm chí, có bạn bước ra thị trường với sản phẩm của mình ngay từ năm thứ hai. Những kết quả trên là tín hiệu tích cực, là minh chứng rõ ràng cho giá trị của đào tạo nghề hiện đại.

Tuy nhiên, sự chủ động từ phía nhà trường chưa đủ nếu hệ thống chính sách còn những “nút thắt”. Chúng tôi gặp rất nhiều rào cản từ tuyển sinh, liên thông, đến công nhận kết quả học tập và hợp tác với doanh nghiệp. Có những điều tưởng như đơn giản, như học sinh học xong lớp 9 muốn vào học nghề, các em được hỗ trợ học phí theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 nhưng ràng buộc bằng các quy định hiện hành khiến người học và nhà trường gặp nhiều khó khăn không đáng có.

Tôi cho rằng, đã đến lúc chúng ta cần rà soát và chỉnh sửa toàn diện các văn bản pháp lý liên quan đến giáo dục nghề nghiệp, từ Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp đến các thông tư hướng dẫn thi hành. Phải xác lập lại vị thế cho giáo dục nghề nghiệp một cách rõ ràng, bình đẳng, có tầm nhìn dài hạn trong tổng thể hệ thống giáo dục quốc dân.

Tôi tha thiết mong rằng chúng ta sẽ có những cơ chế thử nghiệm linh hoạt cho giáo dục nghề; để các trường nghề có thể triển khai các mô hình mới, liên kết mạnh mẽ hơn với doanh nghiệp, tổ chức chương trình đào tạo theo đơn đặt hàng, và đặc biệt ứng dụng công nghệ mới vào giảng dạy mà không bị “trói tay” bởi các quy định lạc hậu.

Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh, chúng ta đang đào tạo con người cho tương lai, không phải cho quá khứ. Muốn vậy, giáo dục nghề nghiệp cần được tiếp sức bằng cả sự tin tưởng lẫn hành lang pháp lý kịp thời. Hãy nhìn giáo dục nghề nghiệp không phải là “kênh phụ” hay “lựa chọn thứ hai”, mà là con đường đúng đắn cho nhiều bạn trẻ tìm thấy bản thân, nghề và sống được với nghề.

Chỉ khi ấy, giáo dục nghề nghiệp mới thực sự hòa vào dòng chảy chung và góp phần kiến tạo một lực lượng lao động vững vàng, vừa giỏi kỹ năng, vừa sẵn sàng đổi mới, đúng như tinh thần mà đất nước đang cần lúc này.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ