Dự thảo về những nội dung ghi trên văn bằng Đại học
Bộ GD&ĐT vừa đưa ra dự thảo lần 1 lấy ý kiến Thông tư về ban hành quy định nội dung chính ghi trên văn bằng giáo dục đại học (bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ và bằng tiến sĩ danh dự).
Nội dung dự thảo đã nhận được rất nhiều phản hồi của dư luận. Những nhà quản lý GD cho rằng điều này phù hợp với thông lệ quốc tế và không ảnh hưởng đến động lực phấn đấu của sinh viên vì kèm theo đó còn có bảng điểm cụ thể để nhà tuyển dụng tham khảo, lựa chọn ứng viên phù hợp với chuyên ngành tuyển dụng.
Tuy nhiên, phần lớn người học lại cho rằng, nội dung ghi văn bằng theo tinh thần dự thảo sẽ làm giảm động lực phấn đấu của sinh viên, vì không còn áp lực thứ hạng.
Theo quy định cũ, người tốt nghiệp sẽ được phân biệt về mức độ: xuất sắc, giỏi, khá, trung bình khá, trung bình; phân biệt rõ hình thức đào tạo gồm chính quy, vừa học vừa làm, học hệ từ xa.
Còn theo dự thảo này, cách ghi các nội dung trên bằng tốt nghiệp đại học sẽ có một số thay đổi. Cụ thể, tên gọi văn bằng tốt nghiệp trình độ đại học chỉ gọi chung là cử nhân, bỏ xếp loại (khá, giỏi, trung bình) cũng như bỏ phân loại chính quy hay tại chức.
Nhiều sinh viên cho rằng, những thông tin ghi trên văn bằng theo dự thảo sẽ không kích thích phấn đấu thứ hạng của người học. |
Theo PGS.TS Hoàng Minh Sơn, hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, việc xếp loại là làm theo thông lệ quốc tế, quốc tế không ghi thì mình không nên ghi. Bằng là chứng nhận để người ta đạt một trình độ nào đó như cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ…
Ông Sơn cho rằng, bên cạnh bằng tốt nghiệp có thể yêu cầu bảng điểm, bảng điểm mới thể hiện được điểm ở các môn khác nhau. Doanh nghiệp muốn xem xét kỹ thì xem kỹ bảng điểm.
Nêu quan điểm về vấn đề này, GS.TS.BS Nguyễn Hữu Tú, phó hiệu trưởng Trường ĐH Y Hà Nội, chia sẻ: "Như Trường ĐH Y Hà Nội, tỉ lệ giỏi, xuất sắc rất ít nhưng các trường khác nhiều hơn nhiều. Một bằng đại học loại giỏi, trung bình chỉ tương đối, vì người ta phải xem học ở nơi nào, tốt nghiệp trường nào, lực học ra sao. Lực học hoặc ghi trên bằng hoặc ghi bảng điểm, nhưng doanh nghiệp phải biết điều đó, nơi tuyển dụng biết và đòi hỏi thì nhà trường sẽ cung cấp".
Diện tích phòng làm việc cho giảng viên: Đề xuất hay bắt buộc?
Bộ GD&ĐT vừa công bố lấy ý kiến dự thảo lần 1 về Thông tư quy định chi tiết hướng dẫn tiêu chuẩn, định mức sử dụng diện tích công trình sự nghiệp thuộc lĩnh vực GD&ĐT.
Một trong những nội dung thu hút sự quan tâm của dư luận là quy định về tiêu chuẩn diện tích làm việc của GS, PGS, giảng viên chính, giảng viên.
Tiêu chuẩn, định mức sử dụng diện tích công trình sự nghiệp thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo được quy định tại Thông tư này sử dụng làm căn cứ để các cơ sở đào tạo lập kế hoạch và dự toán ngân sách; giao, đầu tư xây dựng, mua sắm, thuê công trình sự nghiệp; quản lý, sử dụng các công trình sự nghiệp.
Theo đó, dự thảo quy định mỗi GS cần có diện tích làm việc 24 m2, PGS 18 m2; giảng viên chính, giảng viên là 10 m2.
Ngoài ra, cơ sở đào tạo phải có phòng nghỉ cho giảng viên. Cứ mỗi 20 phòng học cần có 1 phòng nghỉ với diện tích chuyên dùng là 3 m2/giảng viên, diện tích không nhỏ hơn 24 m2/phòng.
Bộ GD&ĐT cho biết, sẽ nghiêm túc tiếp thu các ý kiến phù hợp để hoàn thiện Thông tư có chất lượng và tính khả thi cao. |
Dự thảo Thông tư đặt câu hỏi về tính khả thi và liệu yêu cầu này có phải là điều kiện bắt buộc tại các cơ sở giáo dục?
Trước những băn khoăn của dư luận, ông Phạm Hùng Anh, Cục trưởng Cục Cơ sở vật chất (Bộ GD&ĐT) khẳng định, đây không phải điều kiện về cơ sở vật chất buộc các trường phải thực hiện mà nhằm mục tiêu hạn chế việc sử dụng ngân sách nhà nước để xây dựng cơ sở vật chất vượt quá những khả năng nhà trường sử dụng đến.
Cụ thể trước đây, Chính phủ chỉ quy định định mức sử dụng diện tích đối với các công chức, viên chức trong Nhà nước. Cho đến Nghị định 152 năm 2017, Chính phủ mới bắt đầu quy định tiếp đến các vị trí làm việc mang tính chất chuyên dùng.
Điều này nhằm mục đích để các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập khi muốn mở rộng cơ sở vật chất, nhà nước sẽ căn cứ vào tiêu chuẩn, định mức sử dụng diện tích chuyên dùng ấy để phê duyệt.
Khẳng định, đội ngũ GS, PGS và giảng viên rất cần không gian làm việc và hiện tại vẫn còn tình trạng giảng viên lên dạy hết tiết là về do không có phòng làm việc.
Theo ông Hùng Anh, “Dự thảo Thông tư nhằm tránh trường hợp nếu không kiểm soát, các trường cứ lập dự án để xin tiền sẽ gây lãng phí cho nhà nước. Ngoài ra hiện nay, một số trường đại học trình lên Bộ muốn sử dụng cơ sở vật chất của trường để liên doanh, liên kết. Cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào diện tích chuyên dùng của nhà trường, nếu còn thừa so với tiêu chuẩn định mức sẽ được cho phép khai thác. Trong trường hợp diện tích chuyên dùng của trường đó chưa đủ phục vụ dạy học thì sẽ không được phép”.
Dự thảo Thông tư quy định chi tiết hướng dẫn về tiêu chuẩn, định mức sử dụng diện tích công trình sự nghiệp thuộc lĩnh vực GD&ĐT sẽ được lấy ý kiến đến ngày 30/11/2019.
Nội dung về dạy thêm học thêm được nhiều phụ huynh và học sinh hoan nghênh. |
Ngưng cấp phép dạy thêm, học thêm trên toàn quốc
Trong tuần qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã công bố hết hiệu lực một số quy định về dạy thêm, học thêm tại Quyết định số 2499/QĐ-BGDĐT.
Theo đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 74 Luật Đầu tư năm 2014, các quy định về dạy thêm, học thêm tại các Điều 6, 8, 9, 10, 11, 12, 13 và 14 của Thông tư số 17/2012 ngày 16/5/2012 chính thức hết hiệu lực:
- Điều 6: Tổ chức dạy thêm, học thêm ngoài nhà trường;
- Điều 8: Yêu cầu đối với người dạy thêm;
- Điều 9: Yêu cầu đối với người tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm;
- Điều 10: Cơ sở vật chất phục vụ dạy thêm, học thêm;
- Điều 11: Thẩm quyền cấp giấy phép tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm;
- Điều 12: Hồ sơ cấp giấy phép tổ chức dạy thêm, học thêm;
- Điều 13: Trình tự, thủ tục cấp giấy phép tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm;
- Điều 14: Thời hạn, gia hạn, thu hồi giấy phép tổ chức hoạt động dạy thêm, học thêm; đình chỉ hoạt động dạy thêm, học thêm.
Thời điểm hết hiệu lực của các quy định trên tại Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT là ngày 01/7/2016.
Như vậy, hoạt động dạy thêm, học thêm trên phạm vi toàn quốc sẽ bị dừng cấp phép kể từ ngày Quyết định này được ban hành và có hiệu lực (26/8/2019).