Hát Tiều tới Nam Bộ
Theo tư liệu lịch sử, người Hoa (bao gồm những người Việt gốc Hoa và Hoa kiều sống trên đất Việt Nam) đến vùng đất Nam Bộ và TPHCM (đông nhất là khu vực Chợ Lớn) vào thế kỷ 17. Trong quá trình cộng cư sinh sống với các dân tộc bản địa Kinh, Khmer và Chăm ở Nam Bộ nói chung và TPHCM (chủ yếu ở Chợ Lớn) nói riêng, văn hóa nghệ thuật người Hoa vừa có sự hội nhập vừa luôn được bảo tồn, phát triển với các loại hình dân ca (hát Quảng, hát Tiều), dân vũ (múa lân - sư - rồng) và các loại nhạc cụ truyền thống Trung Hoa rất đặc sắc.
Theo các nghệ nhân người Hoa thì Trung Quốc có ba dòng kịch chính, đó là Kinh Kịch - loại kịch của Bắc Kinh, được hát bằng tiếng Quan Thoại (phổ thông ngữ); Việt Kịch của hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, hát tiếng Quảng (hát Quảng); Triều Kịch là sân khấu của Triều Châu, hát tiếng Tiều (hát Tiều). Tại Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây Nam Bộ đa số người Hoa là gốc Quảng Đông và Triều Châu, không biết tiếng Quan Thoại (phổ thông ngữ) nên họ chỉ thích hát Tiều, hát Quảng và không thích Kinh Kịch.
Hát Tiều xuất hiện tại Nam Bộ nói chung và Chợ Lớn nói riêng vào đầu thế kỷ 20, do những đoàn Triều Kịch lưu diễn đến từ các tỉnh Nam Trung Quốc. Trong quá trình lưu diễn, một số diễn viên của các đoàn Triều Kịch vì nhiều lý do, hoàn cảnh khác nhau đã ở lại Việt Nam rồi nhớ nghề mà lập nên những gánh hát Tiều tại Nam Bộ và Chợ Lớn. Cũng như một số loại hình nghệ thuật khác của người Hoa ở Chợ Lớn, hát Tiều được phân làm hai loại đó là loại sang và bình dân. Đối với loại bình dân thì thường được tổ chức biểu diễn ở các ngôi chùa, miếu; còn loại sang hơn thì được gánh hát thuê hẳn những rạp hát mà biểu diễn.
Ban nhạc trong gánh hát Tiều thường được chia thành hai đội, đó là đội tùa lò cấu gồm các loại trống và thanh la, đại la, đại bát, tiểu bát, thâm ba, nguyệt la được bố trí ngay phía trên sân khấu. Đây là đội có nhiệm vụ đánh những bản nhạc mang tính tâm linh nhưng rất sôi động, tạo sự hào hứng để mở màn làm sạch sân khấu, đuổi tà ma, sự xui xẻo, hoặc đánh trong các đoạn vở diễn có cảnh rượt đuổi, để chuyển cảnh, màn diễn mới. Đội 2, được gọi là đội hí gồm các loại nhạc cụ thuộc bộ dây như đàn nguyệt, đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn tam, đàn nhị, đại sô na, tiểu sô na, tần cầm, tiêu, thập lục, như huyền, trúc huyền, bàn hồ được bố trí phía bên phải của sân khấu, đây là dàn nhạc chính, đánh các bài bản theo từng vai diễn.
Đặc điểm của hát Tiều là diễn luôn một mạch từ 7 giờ tối hôm trước tới 5 giờ sáng hôm sau, với phần mở màn bao giờ cũng là tiết mục “Bát tiên chúc thọ”, do xuất phát từ quan niệm cát tường hý, nhằm phục vụ nhu cầu thưởng ngoạn của giới quý tộc thời phong kiến. Nói chung diễn xuất trong hát Tiều cũng na ná như Kinh Kịch, Việt Kịch và có nhiều điểm giống với diễn tuồng, hát bội của Nam bộ, nghĩa là diễn viên vừa ca, vừa diễn xuất điệu bộ…
Những tiết mục hát Tiều trên sân khấu Trung tâm Văn hóa quận 5 (TPHCM) |
Dừng chân ở Chợ Lớn
Ở khu vực Chợ Lớn (chủ yếu ở quận 5 ngày nay), từ những năm 60 của thế kỷ trước, những người Hoa gốc Triều Châu, đã tập hợp các nghệ nhân, nghệ sĩ hát Tiều và những người yêu thích nghệ thuật truyền thống Trung Hoa, để thành lập ra các ban nhạc Xã, gọi nôm na là ban nhạc nghiệp dư như: Đông Phương, Ỷ Vân, Tân Nghệ, Dương Minh Huyền, Ngọc Tuyết.
Sau 1975, những ban nhạc Xã kể trên đã được sáp nhập lại thành Đoàn Ca kịch Thống Nhất Quảng Triều với khoảng 80 diễn viên và nhạc công hoạt động chuyên nghiệp, phục vụ nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật của người Hoa TPHCM nói riêng, cả nước nói chung. Trong quá trình hoạt động, vì đặc trưng ngôn ngữ của người Hoa gốc Quảng Đông và người Hoa gốc Triều Châu có sự khác nhau, nên Đoàn Ca kịch Thống Nhất Quảng Triều được chia thành hai đoàn nghệ thuật riêng và mỗi đoàn có ngôn ngữ, phong cách biểu diễn riêng.
Đoàn Ca kịch Quảng Đông diễn theo tiếng Quảng Đông (hát Quảng), có lối diễn nhẹ nhàng theo phong cách tự sự, trữ tình với những điệu bộ rất uyển chuyển và hóa trang mang đậm sắc thái của Kinh Kịch. Đoàn Ca kịch Triều Châu thì mang đậm phong cách kịch hiện đại, tả thực và hóa trang theo sắc thái giống với cải lương của người Việt.
Phương thức đào tạo các diễn viên trong nghệ thuật diễn xuất hát Tiều đều chủ yếu là theo cách truyền nghề, một thầy dạy nhiều trò và diễn xuất nhiều vai khổ luyện từ giọng hát, diễn xuất, điệu bộ, võ thuật…
Hai đoàn nghệ thuật này, ngoài phục vụ nhu cầu của bà con trong cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn còn thường xuyên đi biểu diễn lưu động phục vụ người Hoa ở các tỉnh Nam bộ vào các dịp Tết Nguyên Đán, Tết Nguyên Tiêu, lễ vu lan, khai trương…
Những năm gần đây ở khu vực Chợ Lớn - nơi tập trung đông đồng bào người Hoa sinh sống - các hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị vốn văn hóa nghệ thuật dân gian truyền thống Trung Hoa rất được chú trọng.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa nghệ thuật, đồng bào người Hoa đã cùng chính quyền, các tổ chức xã hội khôi phục, bảo tồn, phát huy nhiều di sản văn nghệ thuật đặc sắc, trong đó có hát Tiều (Triều Kịch), góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Hoa tại Chợ Lớn nói riêng và Nam Bộ nói chung.