Dấu ấn 10 năm đổi mới căn bản, toàn diện

0:00 / 0:00
0:00

GD&TĐ - Đã có những thay đổi rõ rệt cả về tư duy và kết quả giáo dục - đào tạo (GD-ĐT).

Ảnh minh họa Internet.
Ảnh minh họa Internet.

Đây là kết quả việc thiết chế đổi mới căn bản, toàn diện đã được thực thi trong hệ thống giáo dục phổ thông, đại học (ĐH).

GS.TS.NGƯT Thái Văn Thành, Giám đốc Sở GD&ĐT Nghệ An, Đại biểu Quốc hội khóa XV: Rõ vị thế của nhà giáo trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục

GS.TS.NGƯT Thái Văn Thành.

GS.TS.NGƯT Thái Văn Thành.

Sau khi thực hiện Nghị quyết 29, theo tôi thay đổi căn bản nhất là nhận thức của hệ thống chính trị, ngành Giáo dục đối với chuẩn đầu ra của giáo dục và quá trình giáo dục. “Chuyển quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học” được cụ thể hóa bằng những chính sách, chương trình hành động để tổ chức thực hiện, từng bước đạt hiệu quả rõ nét.

Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giáo dục ĐH, Luật Giáo dục 2019, Luật Giáo dục nghề nghiệp hợp nhất, tạo khung pháp lý toàn diện cho đổi mới giáo dục. Chúng ta cũng đã hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về Chương trình GDPT 2018 để triển khai đồng bộ từ Trung ương xuống địa phương. Cụ thể, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa GDPT; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 404/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa GDPT.

Các địa phương, trong đó có Nghệ An đã cụ thể hóa: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An ban hành 1 Chương trình hành động, 1 Nghị quyết chuyên đề về đổi mới giáo dục. HĐND tỉnh ban 17 Nghị quyết quy định các chủ trương, chính sách phát triển giáo dục của tỉnh. UBND tỉnh ban hành 44 quyết định, chương trình, kế hoạch, đề án cụ thể hóa chính sách, pháp luật về giáo dục trên địa bàn tỉnh. Nhiều mô hình giáo dục mới được ngành Giáo dục Nghệ An xây dựng, triển khai.

Ảnh minh họa/ INT

Ảnh minh họa/ INT

Mặc dù Chương trình GDPT 2018 mới đi được nửa chặng đường nhưng bước đầu đã khẳng định tính khoa học, đúng đắn, phù hợp thực tiễn và yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay. Chương trình đã làm thay đổi ý thức, thái độ, động cơ học tập của người học, hướng đến học thật, thi thật, học để có kiến thức, năng lực thực hành trong thực tế. HS được phát hiện, bồi dưỡng các năng khiếu, sở trường của bản thân, tạo đam mê, hứng thú học tập. Bước đầu đã hình thành các giá trị đoàn kết, nhân ái, trách nhiệm, trung thực và các năng lực tự chủ, sáng tạo, tiệm cận với những kỹ năng toàn cầu.

Có nhiều yếu tố quan trọng để Việt Nam thực hiện thành công Nghị quyết 29, nhưng căn bản, quyết định, theo tôi gồm:

Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực người học, bằng giải pháp đồng bộ về đào tạo, đào tạo lại, kết hợp bồi dưỡng, tập huấn phù hợp từng đối tượng.

Thúc đẩy hợp tác chuyển đổi số ngành Giáo dục, bảo đảm mục tiêu kép: Vừa thay đổi hình thức hoạt động quản lý, quản trị và dạy học; vừa đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao hình thành chính quyền số, kinh tế số, xã hội số.

Tăng cường đầu tư bảo đảm các nguồn lực về con người, tài chính, cơ sở vật chất cho phát triển giáo dục. Đặc biệt là những chính sách phát huy dân chủ cơ sở, giao quyền tự chủ và khơi dậy niềm đam mê, sáng tạo cho hiệu trưởng, giáo viên được khẳng định mình trong sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.

Ông Nguyễn Tân, Giám đốc Sở GD&ĐT Thừa Thiên - Huế: 5 nguyên nhân dẫn đến những chuyển biến quan trọng

Ông Nguyễn Tân.

Ông Nguyễn Tân.

Từng là người học của giáo dục trước đổi mới những năm 80; là giáo viên và làm quản lý giáo dục những năm 90; tham gia tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh quản lý Nhà nước về phát triển giáo dục địa phương giai đoạn trước và sau Nghị quyết 29 ra đời…, tôi nhận thấy triển khai đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT mang lại nhiều thay đổi lớn.

GD-ĐT tiếp tục được Đảng, Nhà nước, toàn xã hội quan tâm, đầu tư. Cơ chế quản lý giáo dục có nhiều đổi mới. GD-ĐT gắn bó chặt chẽ, trực tiếp và hiệu quả với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy; đổi mới thi, kiểm tra đánh giá được thực hiện đồng bộ, có lộ trình, từng bước khắc phục hạn chế của giáo dục truyền thống. Phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực người học được chú trọng thực hiện và bước đầu nhìn thấy kết quả. HS được tăng cường kỹ năng thực hành, chú trọng chất lượng đầu ra.

Chất lượng giáo dục đại trà và mũi nhọn được chăm lo chú trọng, đạt nhiều kết quả, thành tích cao. Việc đa dạng hóa các loại hình học tập, đào tạo theo hướng mở, vừa phù hợp với xu thế phát triển chung của giáo dục thế giới, vừa tạo nhiều cơ hội học tập, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực. Giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm nhiều hơn. Từ đó, khoảng cách chất lượng, điều kiện tổ chức dạy - học giáo dục giữa các vùng miền được rút ngắn. Điều kiện cơ sở vật chất trường lớp học ngày càng chuẩn hóa và hiện đại, tạo cơ hội để thực hiện nhiệm vụ giáo dục phát triển toàn diện đúng theo mục tiêu Nghị quyết.

Nhiều yếu tố tổng thể tạo nên những kết quả trên, trong đó có 5 nguyên nhân chính:

Kế thừa thành quả Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI; mục tiêu, hệ thống các nhiệm vụ giải pháp của Nghị quyết 29 sát với thực tiễn giáo dục và điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam trong bối cảnh phát triển, ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Vì vậy, thực hiện Nghị quyết thuận lợi và mang lại nhiều hiệu quả. Việc Ban Bí thư tổng kết 5 năm để ra Kết luận số 51-KL/TW tiếp tục khẳng định chủ trương đổi mới theo Nghị quyết 29 đã thể hiện điều đó.

Nghị quyết 29 được xây dựng, tổ chức thực hiện đã phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, giữa bảo tồn và phát triển.

Sự vào cuộc đồng bộ, thống nhất của cả hệ thống chính trị. Từ Trung ương, Quốc hội, Chính phủ đến địa phương qua các nghị quyết, chương trình hành động, đề án để triển khai. Hệ thống luật pháp, thể chế quản lý Nhà nước được ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện kịp thời, đồng bộ, tạo điều kiện cho sự nghiệp đổi mới GD-ĐT phát triển, đạt nhiều thành quả.

Từ khát vọng được đề ra trong mục tiêu, sự nghiệp đổi mới đã nhận được sự đồng lòng của người dân và xã hội, ủng hộ của các tổ chức quốc tế.

Vai trò của Nhà nước đã thay đổi đáng kể, từ trực tiếp triển khai kế hoạch giáo dục theo cơ chế bao cấp toàn diện, chuyển sang thực hiện quản lý Nhà nước về giáo dục, tập trung ban hành hệ thống các luật, văn bản dưới luật, cơ chế, chính sách phát triển GD-ĐT. Từng bước tách quản lý Nhà nước với quản lý cơ sở GD-ĐT. Đây cũng là thay đổi quyết định thành quả của mục tiêu đổi mới.

GS.TS Phạm Hồng Quang, Chủ tịch Hội đồng ĐH Thái Nguyên: Sinh khí mới cho giáo dục ĐH

GS.TS Phạm Hồng Quang.

GS.TS Phạm Hồng Quang.

Gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 của Đảng, giáo dục ĐH đã đạt nhiều thành tựu lớn. Đầu tiên là nhận thức mới của cả hệ thống chính trị về giáo dục, đặc biệt là làm thay đổi về ý nghĩa, giá trị của giáo dục ĐH với sự phát triển quốc gia. Nghị quyết của Đại hội XIII của Đảng (2020) xác định 3 đột phá chiến lược.

Thứ nhất: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Thứ hai: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao… Thứ ba: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại… chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.

Trong chính sách của Chính phủ (kể cả với chính quyền địa phương) đã thực sự coi giáo dục ĐH là nhân tố quyết định đến chất lượng tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội. Càng ngày chúng ta nhận ra việc sở hữu giá trị trí tuệ mới là sở hữu quan trọng và bền vững. Các nghị quyết của Quốc hội đã dựa trên những luận cứ khoa học, thực tiễn để hoàn thiện chính sách pháp luật ở tầm vĩ mô. Doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp lớn) cũng có những thay đổi trong chính sách sử dụng nhân lực, đầu tư cho giáo dục ĐH. Đó chính là “cú huých” của thị trường lao động, tác động mạnh đến sự thay đổi của giáo dục ĐH. Nhận thức của người dân về giáo dục ĐH thực chất hơn, coi trọng ý nghĩa, giá trị đem lại ánh sáng trí tuệ, văn hóa, nền tảng học vấn rộng trong xã hội luôn thay đổi…

Luật Giáo dục 2019 và Luật Giáo dục ĐH (sửa đổi) đã đem lại “sinh khí” mới cho giáo dục ĐH. Có thể kể đến 2 điểm chính: Luật Giáo dục tại Điều 2 có thay đổi rất quan trọng là “mục tiêu giáo dục là phát triển toàn diện con người…”. Với giáo dục ĐH, thay đổi bản chất, ý nghĩa lớn là tự chủ ĐH với 3 nội dung chính gồm chức năng sáng tạo - chức năng quan trọng nhất của nhà trường - được khai mở.

Tự chủ ĐH là điểm then chốt để nâng cao chất lượng đào tạo, phục vụ cộng đồng. Đây là tư tưởng cốt lõi của Luật số 34, chỉ hơn 3 năm thực hiện đã đạt nhiều kết quả khả quan. Tự chủ ĐH là cuộc cách mạng về chính sách, đột phá, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP nhằm hoàn thiện các quy định về cơ chế tự chủ ĐH và mở rộng quyền tự chủ cho các trường.

Với 3 trụ cột: Tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính đã thúc đẩy các trường chủ động hơn, có cơ hội đánh giá nhìn nhận toàn diện mình hơn; đặc biệt chủ động chỉ ra hạn chế, khiếm khuyết, rào cản để vươn dậy. Đây cũng là thách thức rất lớn với các trường trong quá trình xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện, trách nhiệm giải trình, đánh giá, hoàn thiện các mặt hoạt động của nhà trường.

Điểm sáng của tự chủ ĐH còn ở các kết quả: Tư duy mới về quản trị ĐH, mở rộng hệ thống và các quan hệ, chất lượng chuyên môn học thuật, bộ máy tinh gọn, tài chính hiệu quả. Về quản lý, có sự đồng bộ về quản lý ngành. Ví dụ: Nghị định 116/NĐ-CP quy định về chính sách hỗ trợ học phí với sinh viên sư phạm; Thông tư 17/BGDĐT về chuẩn chương trình đào tạo giáo dục ĐH… Chỉ với 2 điểm này đã thể hiện rõ quan điểm: Không thị trường hóa giáo dục, phát triển giáo dục trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kết quả đáng chú ý khác còn thể hiện ở sức sáng tạo trong phát triển chương trình và nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ, công bố quốc tế tăng mạnh, xếp hạng quốc tế nhiều trường… được nâng lên rõ rệt. Giảng viên, sinh viên đã có bước tiến về chất lượng, nhân cách. Nguồn nhân lực được đào tạo từ các trường ĐH đóng góp lớn đối với sự phát triển bền vững của đất nước.

Thiết chế đổi mới căn bản, toàn diện đã được thực thi trong hệ thống giáo dục ĐH. Hệ thống giáo dục ĐH được quy hoạch gắn với mục tiêu chất lượng. Hệ thống bên trong của giáo dục ĐH được kiện toàn… Sức hấp dẫn của giáo dục ĐH không những bảo đảm giá trị văn hóa - phát triển bền vững quốc gia mà còn có sức hút với sinh viên quốc tế… Xã hội đã có niềm tin sâu sắc hơn về đóng góp của giáo dục ĐH với phát triển cộng đồng và sẵn sàng đầu tư phát triển.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ