Bốn cuộc hôn nhân
Ernest Hemingway là một tác giả người Mỹ, sinh năm 1899 ở Illinois. Khi còn là một thiếu niên 17 tuổi, ông đã bắt đầu công việc viết lách ở một tòa soạn báo tại Kansas City.
Năm 18 tuổi, ông đến Italy phục vụ ở bộ phận cứu thương trong Thế chiến thứ I vì quân đội không cho ông gia nhập do bị cận thị. Điều đáng ngạc nhiên là kể từ khi gặp vấn đề về thị lực, ông viết rất nhiều quyển sách.
Ở Italy được vài tháng, ông được hồi hương do bị thương trong một trận đánh. Không lâu sau đó, ông lại được điều đến châu Âu với tư cách phóng viên chiến trường.
Trước khi Hemingway kết hôn lần đầu, ông đã yêu Agnes von Kurowsky, một y tá của hội Chữ thập đỏ, người chăm sóc ông khi ông bị thương ở nước ngoài. Khi ông ra viện, họ hẹn ước sẽ kết hôn ở Mỹ.
Nhưng thật bất ngờ, ngày nọ ông nhận một bức thư từ Kurowsky, cho biết cô đã kết hôn với người khác. Sau cú sốc này, Hemingway thề sẽ không để một người phụ nữ nào phụ bạc mình lần nữa. Điều này giải thích vì sao ông trở thành người đàn ông đào hoa, đa tình với 4 cuộc hôn nhân.
Hai năm sau khi bị phụ tình, vào năm 1922, ở tuổi 20, ông gặp và kết hôn với Hadley Richardson, một phụ nữ lớn hơn ông 8 tuổi. Họ chuyển đến sống ở Paris, nơi ông tiếp tục viết và làm việc như một phóng viên nước ngoài. Họ có với nhau một cậu con trai.
Những trải nghiệm ở Paris thời gian này đã được ông dùng làm chất liệu cho một số tác phẩm về sau.
Hemingway và người vợ đầu tiên, Hadley, sống đầm ấm trong cảnh nghèo, cho đến khi Pauline Pfeiffer chen vào bức tranh hạnh phúc của họ. Trong một buổi tiệc, ông được giới thiệu với cô và chị cô, những người thuộc tầng lớp giàu có. Pauline đối xử tốt với Hadley và cả ba người trở thành bạn thân của nhau.
Tuy nhiên, đối với Hemingway, Pauline Pfeiffer là một típ phụ nữ khác hẳn với Hadley, cô gợi cảm và có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Ông bắt đầu lén lút tư tình với cô. Hadley phát hiện điều tồi tệ này và bà đề nghị hai người ly thân trong 100 ngày để Hemingway suy nghĩ lại. Hết thời hạn 100 ngày, mọi chuyện vẫn không chuyển biến, họ chính thức ly dị.
Chỉ vài tháng sau cuộc hôn nhân tan vỡ, ông kết hôn với Pfeiffer vào tháng 5/1927. Họ có với nhau hai con trai. Trong hồi ký của mình, Hemingway đổ lỗi cho cô là kẻ phá hoại cuộc hôn nhân của ông với Hadley, người duy nhất mà ông thực sự yêu.
Hemingway rồi cũng chán Pauline khi ông gặp Martha Gellhorn. Ông chia tay người vợ thứ nhì sau khi trở lại làm phóng viên trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Chỉ 3 tuần sau khi chính thức ly dị, ông kết hôn với Martha.
Martha là một nhà báo Mỹ từng làm phóng viên chiến trường như Hemingway. Trong suốt cuộc đời 60 năm làm báo, bà đã bám theo và tường trình nhiều cuộc xung đột chính trên thế giới. Cuộc hôn nhân của bà với Hemingway chỉ kéo dài được 5 năm (1940 - 1945), trước khi ông gặp người phụ nữ khác, Mary Welsh. Martha sống trọn tuổi già của mình và tự kết thúc cuộc đời ở tuổi 89.
Trong khi ở London vào Thế chiến thứ Hai, Hemingway gặp Mary Welsh, phóng viên của tạp chí Time. Chỉ sau 3 lần gặp gỡ, ông ngỏ lời cầu hôn với bà. Sau khi ông và Martha ly dị vào năm 1945, ông kết hôn với Mary vào năm sau đó.
Cuộc hôn nhân này kéo dài suốt 15 năm, cho đến ngày ông qua đời (năm 1961). Họ không có con với nhau. Theo báo chí ở địa phương, bà là một người đầu tiên phát hiện ông qua đời trong buổi sáng định mệnh đó.
Hemingway và người vợ đầu tiên. |
Nhà văn và người vợ thứ tư. |
Mối quan hệ đặc biệt
Ngoài những cuộc hôn nhân chính thức, Hemingway cũng có những chuyện tình “ngoài luồng”, mà đáng kể là mối quan hệ với Marlene Dietrich, diễn viên, ca sĩ người Mỹ gốc Đức. Mối quan hệ này kéo dài trong 30 năm nhưng hoàn toàn thuần khiết.
Sở dĩ người ta biết được điều này là nhờ những bức thư mà hai người trao đổi với nhau. Một bức thư của Hemingway viết vào tháng 8 năm 1955 gửi cho Marlene Dietrich được mang ra đấu giá công khai vào năm 2014.
Thực sự còn có một sưu tập gồm 30 bức thư khác của hai người đã được hiến tặng cho thư viện Kennedy ở Boston. Khi trao đổi những bức thư đầu tiên Hemingway đã ở tuổi 50, còn Dietrich thì 47.
Hai người gặp nhau vào năm 1934 khi Dietrich trên đường trở về Mỹ để tránh Đức Quốc xã, còn Hemingway cũng đang quay về nhà từ một cuộc đi săn ở châu Phi. Mối quan hệ của họ tiếp tục cho đến khi ông qua đời.
Mặc dù những lá thư chứa đầy cảm xúc yêu đương, nhưng ngoài đời thực, họ chưa bao giờ là người tình của nhau. Nhà văn từng gọi cả hai là “nạn nhân của cảm xúc yêu đương không đến cùng một lúc”. Khi ông chìm đắm trong tình yêu thì Dietrich thờ ơ, ngược lại, khi ông không còn cảm xúc thì cô lại yêu đương tha thiết.
Ernest Hemingway luôn được tưởng nhớ như là một nhà văn vĩ đại. Ông là một người rất năng động, yêu cuộc sống thiên nhiên, thích những trận đấu bò và những cuộc đi săn. Ông còn yêu mèo. Ông có rất nhiều mèo trong nhà. Một trong những nơi ở của ông hiện là một bảo tàng có 40 - 50 con mèo.
Hầu hết những tác phẩm của Hemingway được viết vào giữa thập niên 20 và 50 của thế kỷ 20. Năm 1954, ông đoạt giải Nobel Văn chương.