Đặng Văn Hòa (1791 - 1856), người làng Thanh Lương, thành phố Huế. Sinh trưởng trong gia đình truyền thống thi thư, ngay khi còn nhỏ ông được phụ thân vốn là thầy giáo làng kèm cặp, bồi dưỡng kiến thức Nho học một cách cẩn mật và toàn diện.
Chính nền tảng giáo dục vững chắc ấy đã tạo ra một vị quan rất mực thanh liêm, hết lòng vì nước vì dân, được dân chúng tin yêu, kính phục hết mức.
Tổng đốc đầu tiên của Hà Nội
Theo các nguồn sử liệu, năm Gia Long thứ 12 (1813), triều đình mở khoa thi Hương đầu tiên ở Thừa Thiên, Đặng Văn Hòa dự và đỗ Hương cống. Hai năm sau, ông được tuyển vào học ở Cống sĩ Viện (tức Quốc Tử Giám) để chuẩn bị thi Tiến sĩ. Tuy nhiên sau đó Đặng Văn Hòa không tham gia thi Tiến sĩ, lý do vì sao thì không ai được rõ.
Năm 1819, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Hà Đông, rồi Quảng Nam và dần thăng tiến qua nhiều chức vụ quan trọng: Lang trung Binh bộ, Tham hiệp, Hiệp trấn Thanh Hóa. Năm 1928, khi ấy Hà Nội vẫn mang tên Bắc Thành, Đặng Văn Hòa nhậm chức Tham tri Binh tào lãnh Hộ tào tại Bắc Thành, quyền Tổng trấn Bắc Thành, được cử làm chủ khảo khoa thi Hương năm Mậu Tý (1828) trường Bắc Thành.
Trong thời gian đảm nhận chức chủ khảo, ông phá lệ làm một việc khiến sĩ tử Hà Nội lúc ấy vô cùng kính phục. Số là trước đây phép thi ở kỳ thứ nhất về Kinh nghĩa, bài chỉ làm theo lối “học quy”, đến khoa thi này đổi dùng văn “bát cổ”. Các sĩ tử rất lo sợ vì chưa được luyện, ông bèn tâu ngay về triều xin vua gia ân cho phép tùy dùng lối “học quy” hay “bát cổ” cũng đều được cả. Nghe tin, sĩ tử reo mừng rầm đường. Ngày vào trường thi, sĩ tử và người đến xem đông như dự hội.
Năm 1830, ông giữ việc Hộ (coi sổ sách quân dân) ở Bắc Thành, trước tình thế trong ngoài bất ổn, ông tự mình đặt kế sách đối phó với nhà Thanh, ngăn chặn đem tiền giả mang sang ta để mua hàng, định lại thuế cho lái buôn nhà Thanh và cấm họ mang thuốc phiện sang bán.
Năm 1831, ông cầm quân lên Lai Châu đánh quân Thanh xâm phạm biên giới và lấy lại đồn Phong Thổ. Khi vua Minh Mạng đổi tên Bắc Thành thành tỉnh Hà Nội, bãi bỏ chức Tổng trấn, bổ nhiệm Đặng Văn Hòa làm Tổng đốc. Như vậy, ông là vị Tổng đốc đầu tiên của Hà Nội.
Ngay sau khi nhậm chức, ông cho vẽ ngay bản đồ Hà Nội, mở rộng đường thiên lý Hà Nội đến Phú Xuyên và dựng trường thi Hà Nội ở khu vực Thư viện Quốc gia ngày nay.
Năm 1835, ông được thăng Thái tử Thiếu bảo, hàm Thượng thư Binh bộ, vẫn giữ chức Tổng đốc Hà Nội - Ninh Bình, kiêm Hữu đô ngự sử Viện đô sát, trực tiếp xét xử nhiều vụ án nổi tiếng.
Năm 1837, Tổng đốc Đặng Văn Hòa cho sửa Khuê Văn Các trong Văn Miếu. Năm sau, trước cảnh chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) đổ nát, ông kêu gọi quyên góp tiền để sửa chữa.

Vị Thánh đồng đen
Tổng đốc Đặng Văn Hòa luôn lấy việc “lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ” làm lẽ sống và coi nỗi khổ của dân là nỗi khổ của mình. Để đỡ phần nào gánh nặng cho dân, ông cho mở rộng tịch điền, dành đất cho các quan tự cày cấy và dựng buồng nuôi tằm ở gần dinh thự để tiện chăm sóc. Mỗi lần đi qua những vùng đất trống, ông cho dừng kiệu để hỏi quan bản hạt vì sao lại bỏ đất hoang, từ đó khuyến khích khai hoang, mở ruộng tịch điền, khám đạc ao hồ...
Chuyện xưa truyền lại, ngày ấy phố phường Hà Nội dân cư đông đúc, đường sá chật hẹp, nhà cửa làm toàn bằng gỗ, tranh, tre, nứa, lá… liên tục hỏa hoạn. Mỗi lần xảy ra cháy, Tổng đốc Đặng Văn Hòa lại cưỡi voi, đốc thúc binh lính và người dân đi dập lửa. Có lần, người ông bị ám khói đen sì, chỉ còn hai con mắt. Người địa phương khâm phục mà nói, mặt đen nhưng tâm sáng.
Mỗi lần cứu hỏa xong, ông không quên cứu trợ ngay cho gia đình bị nạn, để họ sớm ổn định cuộc sống, nghiêm cấm nha lại không được tơ hào đồng tiền bát gạo của dân.
Vì muốn nhắc nhở dân chúng cảnh giác, đề phòng hỏa hoạn mà năm 1838, ông xin lập miếu thờ Hỏa Thần ở thôn Yên Nội (nay là số 30 phố Hàng Điếu). Tại đây còn bút tích của Đặng Văn Hòa với bốn chữ “Vị dân chí kế” và đôi câu đối nói lên ý chí và trách nhiệm của mình trước vua và trước dân: “Túc hỏa lương trù khâm thánh doãn/ Vị dân chí kế tự thần tri”.
Ông còn vẽ bản đồ, quy hoạch lại đường sá, nhà cửa ở Hà Nội thông thoáng, dễ tiếp cận vị trí khi xảy ra sự cố. Người dân Hà Nội yêu quý gọi ông là “Thánh đồng đen”, như để tôn xưng vị thần cứu hỏa.
Bố chính Đặng Huy Trứ là cháu gọi Đặng Văn Hòa là bác đã viết trong sách “Nhĩ, Hoàng di ái lục” rằng: “Lúc bác tôi làm Chánh chủ khảo khoa thi Hương ở miền Bắc, sĩ tử và người đến xem đông nghịt, nhìn thấy phong thái, diện mạo người khôi ngô, to lớn và trầm tĩnh như Bắc Thiên Trấn Vũ đại đế, mọi người đều gọi là Thánh đồng đen”.

Từ khi thành lập tỉnh Hà Nội, triều đình đã bỏ chức Đê chính, nhưng ông vẫn quan tâm đặc biệt đến đê điều, có kế hoạch giao từng đoạn đê cho các địa phương duy tu bảo vệ. Vào mùa nước lên, ông sai làm cột thủy chí theo dõi mực nước, sáng chiều báo lên quan trên kịp thời đối phó.
Ông cho tu bổ đê tại các hạt Từ Liêm, Vĩnh Thuận, Thọ Xương, Nam Xang, Thanh Liêm, Bình Lục… Ông xin với triều đình bỏ thuế vải, thuế dầu thắp, lại xin cho mấy huyện vùng chiêm được nộp thóc tô vào vụ hạ, nộp thuế vào vụ đông. Vùng Kim Sơn, Ninh Bình bị bão lớn, ông tổ chức phát chẩn cho dân và sửa đê quai ngăn nước mặn.
Sau 5 năm làm Tổng đốc Hà Nội - Ninh Bình, Đặng Văn Hòa được điều về kinh làm Thượng thư Công bộ, kiêm phụ trách Viện Hàn lâm, tham gia Viện Cơ mật. Ông có công trong việc chế tạo đạn lan can và liên châu, lập xưởng thủy sư ở Thanh Phước (Hương Phong - Hương Trà), xây dựng lũy đá Chiên Đàn và pháo đài ở Quảng Nam.
Năm 1840, ông giữ chức Thự Tổng đốc rồi thăng Tổng đốc Bình - Phú (Bình Định - Phú Yên). Tại đây, ông có công tổ chức lại việc quan điền để trừ nạn hào lý chiếm ruộng đất tốt. Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) chuyển ra làm Tổng đốc Định - Yên (Nam Định - Hưng Yên). Sau đó, triều đình lại điều ông về kinh giữ chức Thượng thư Hình bộ, kiêm Quản ấn triện Đại Lý tự, gia hàm Hiệp biện Đại học sĩ, sung đại thần Cơ Mật viện, sau đổi sang làm Thượng thư bộ Lễ (1846).

Xứng bậc thanh quan, công thần
Cuối năm 1846, Đặng Văn Hòa lại được triều đình điều ra Bắc trở lại làm Tổng đốc Hà Nội - Ninh Bình lần thứ hai. Ông cho khơi sâu lòng hào quanh bãi chiến trường xưa, lấy 15 mẫu đất ở hai trại Nam Đồng và Thịnh Quang làm nghĩa địa, cho thu nhặt hài cốt lập thành 13 gò đống, lại sai dựng chùa đúc chuông cúng các cô hồn.
Nay ở lối vào chùa Đồng Quang vẫn còn di tích có đắp nổi bốn chữ: “Nghĩa chủng lệ đàn” (Đàn cúng cô hồn). Trong chùa còn bia đá tạo năm 1856, do Đốc học Thanh Hóa là Lê Duy Trung soạn, viết: “Quân Tây Sơn giao chiến với quân của Thái thú Điền Châu Tôn Sĩ Nghị, quân Thanh chết hàng vạn chôn ở khu vực này. Thời Thiệu Trị, Tổng đốc Đặng Văn Hòa đã cho thu hài cốt và lập nên Nghĩa chủng”.
Trong 5 năm từ 1850 - 1855, ông được triệu về triều giữ lại chức Thượng thư bộ Hình sung Cơ Mật viện đại thần, rồi làm Khâm sai đại thần đi kinh lý Bình Phú (1851), về kiêm thêm Công bộ, cuối cùng làm Tổng tài Quốc Sử Quán cho đến khi qua đời tại chức ngày 20/6 năm Bính Thìn (1856).
Từ việc xét xử công minh, ông được vua Tự Đức phong Văn minh điện Đại học sĩ và tặng thưởng Kim khánh khắc bốn chữ “Cựu đức thuần thành”. Bài vị ông được đưa vào đền Hiền Lương năm 1858, nơi thờ các công thần triều Nguyễn. Dân làng Thanh Lương đã tạc tượng Đặng Văn Hòa thờ tại ngôi chùa của làng.

Đặng Văn Hòa làm quan đại thần, phục vụ bốn đời vua triều Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức). Là người đứng đầu Viện Hàn lâm, Đặng Văn Hòa còn giữ việc chủ biên các bộ sách lớn như: “Nam thổ anh hoa lục”, “Thiệu Trị văn quy”, “Đại Nam sự lệ hội điển”…
Ông còn để lại 75 bài thơ trong tập “Lễ Trai thi chân bản”. Bài thơ “Mong được mùa” đã thể hiện cốt cách và lòng thương dân của ông: “Lo cho dân lòng như lửa đốt/ Canh khuya suy nghĩ vương vấn, khó yên giấc/ Mùa mất thì thương xóm làng đau khổ”.
Tổng đốc Hà Nội Đặng Văn Hòa suốt đời sống thanh liêm, được vua yêu, dân mến. Vua Minh Mạng khen: “Tài cao đức trọng, giỏi chính sự, khéo khuyến khích hướng dẫn nhân dân, khiến nhân dân yên vui làm ăn”. Nhân dân Thừa Thiên có câu truyền tụng: “Bác ngạn thanh liêm/Đường xuyên trung ái”.
Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tạo người Đông Ngạc (Hà Nội) viết: “Tướng công Lễ Trai dáng mạo khôi ngô, cao lớn, lại giữ yên đất nước, lo cho dân chẳng khác gì thần Chân Vũ. Thần che chở cho dân nơi cõi âm. Tướng công giúp dân nơi dương thế. Dân tộc kính người như thần, nên ca ngợi và suy tôn là Thánh đồng đen”.
Có thể nói, Tổng đốc Đặng Văn Hòa rất gần và rất giống với hình tượng một thanh quan nổi tiếng đời nhà Thanh (Trung Quốc) là Vu Thành Long. Vu Thành Long là Tổng đốc Lưỡng Giang xuất thân từ Phó bảng Cống sinh, thì Đặng Văn Hòa xuất thân từ Hương cống - tương đương học vị với nhau, và đều không phải là đại khoa.
Vu Thành Long xuất phát điểm làm quan từ Tri huyện La Thành - một vùng vô cùng nghèo khó, thì Đặng Văn Hòa làm Tri huyện Hà Đông - vùng đất ven sông Thu Bồn xa xôi của Quảng Nam xưa. Vu Thành Long 3 lần được vua ban danh hiệu “Trác dị” (mọi mặt hơn người) và sau lại ban cho một tấm biển “Cao hành thanh túy”, thì Đặng Văn Hòa cũng được vua ban Kim khánh “Cựu đức thuần thành” (Đức xưa thành thực luyện đạt).
Cuối cùng, vào năm Ung Chính thứ 10, Vu Thành Long được đưa vào thờ tự trong “Hiền lương từ”, thì năm Tự Đức thứ 11, Đặng Văn Hòa cũng được đưa vào đền Hiền Lương - nơi thờ các công thần nhà Nguyễn, được các vua Nguyễn vinh danh.
Hoàng giáp Lê Đình Diên - Đốc học Hà Nội, trong bài tựa cuốn “Nhĩ, Hoàng di ái lục” của Bố chính Đặng Huy Trứ đã viết: “Diên tôi hồi còn trẻ ở Nam Định từng được nghe vang danh Tổng đốc họ Đặng. Ngài thực là một bậc danh gia cự phách, ở ngôi tứ trụ của triều đình làm rạng rỡ cho gia tộc và có thể làm khuôn mẫu cho các bậc mũ áo”.