Phản ánh chân thực những mảng màu chiến tranh
Những năm đầu hậu chiến, văn học chưa bứt khỏi mô hình phản ánh nhưng cái nhìn về hiện thực đã dần thay đổi, đi từ mở rộng phạm vi phản ánh hiện thực, nhìn thẳng vào sự thật đến tái nhận thức lịch sử và “nghiền ngẫm hiện thực”.
Những cuốn tiểu thuyết được ấp ủ trong chiến tranh và được xuất bản ngay sau ngày miền Nam được giải phóng như Nắng đồng bằng (Chu Lai), Mở rừng (Lê Lựu), Lửa từ những ngôi nhà (Nguyễn Minh Châu), Trong cơn gió lốc (Khuất Quang Thụy)… đã tiếp nối dòng mạch văn học chiến tranh đầy âm hưởng hào hùng.
Sau đó khoảng chục năm, khi màu sắc sử thi nhạt dần, bên cạnh cái hào hùng, chất bi tráng từng bước hiển diện trong tiểu thuyết. Với Năm 75 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Ký sự miền đất lửa (Nguyễn Sinh – Vũ Kỳ Lân), Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Cửa gió (Xuân Đức),… tiểu thuyết chiến tranh ngày càng chú ý nhiều hơn đến những ranh giới mỏng manh của chiến tuyến và lòng người.
Có thể nói, nhiều tác phẩm đã đi đến điểm tận cùng về khả năng phản ánh hiện thực, cái hiện thực ở cả hai chiều chiến thắng – thất bại như: Không phải trò đùa (Khuất Quang Thụy), Đại tá không biết đùa (Lê Lựu), Vòng tròn bội bạc, Ăn mày dĩ vàng (Chu Lai), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Bến không chồng (Dương Hướng)…
Với một độ lùi thời gian vừa đủ, cái nhìn về quá khứ chiến tranh không còn đơn giản, một chiều như trước. Trong “Một ngày và một đời”, từng trang sử về cuộc đời một nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn và cuộc tấn công mùa xuân Mậu Thân năm 1968 được lật giở qua hồi ức của những con người còn sống. Qua rất nhiều nhân chứng, bức màn che phủ trận đánh khốc liệt và tuyệt mù dấu vết năm xưa được vén dần lên đầy đau thương, xót xa.
Ảnh tư liệu - minh họa. |
Vươn tới “tầm cao của văn học chiến tranh” thế giới
Trong tiểu thuyết chiến tranh đương đại, hiện thực lịch sử được nhìn đa chiều và từ bên trong sâu thẳm tâm hồn con người. Gương mặt chiến tranh hiện lên qua những số phận cá nhân như Quy – nữ du kích chuyên làm nhiệm vụ tiêu diệt những tên ác ôn, phản bội (Chim én bay), Kiên – người lính từ chiến trường Tây Nguyên trở về viết văn trong nỗi ám ảnh không dứt (Nỗi buồn chiến tranh), hay Hai Hùng – chiến sĩ Quân giải phóng vùng ven Sài Gòn thất bại thảm hại trong đời sống hiện tại và lội ngược dòng ăn mày dĩ vãng (Ăn mày dĩ vãng).
Cảm hứng bi kịch trở nên đậm nét, con người được nhìn nhận ở khía cạnh là nạn nhân của chiến tranh. Tiểu thuyết viết về chiến tranh nhưng không chỉ có chú mục vào thời gian sự kiện của những trận đánh hay không gian chiến trường mà tập trung toàn bộ vào thân phận con người trong cuộc chiến.
Viết về những dư chấn chiến tranh, các nhà văn Việt có sự gặp gỡ với các nhà văn Mỹ, đặc biệt là các cựu binh khi viết về chiến tranh Việt Nam. Trong các tác phẩm như Những thứ họ mang (Tim O’Brien), Chuyện của Paco, Giáp lá cà (Lary Heinemann), Đỉnh Matterhorn (Karl Marlantes)… hiển lộ sinh động, chân thực hình tượng nhân vật là những nạn nhân chiến tranh trong hành trình tự nhận thức, trải nghiệm đó.
Theo thời gian, các vết thương chiến tranh dần kín miệng, xu hướng hòa giải, hòa hợp dân tộc đều như một lẽ tất yếu.
Ngay từ những ngày đầu hòa bình trong tiểu thuyết Miền cháy, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề này khi để nhân vật mẹ Êm – người có chồng và con đã hy sinh trong kháng chiến – phải đối diện với tình huống vỡ lẽ ra đứa bé bấy lâu bà nhận nuôi chính là đứa con của kẻ thù đã từng giết chính con mình.
Cuộc tái ngộ giữa bà mẹ với tên sát nhân là một thử thách ghê gớm và sau cuối người mẹ đã vượt lên trên thù hận cá nhân, cũng là hướng tới sự hòa giải dân tộc, chiến tuyến.
Trong Lạc rừng (Trung Trung Đinh), Bình – một người lính trẻ miền Bắc – tình cờ bị lạc rồi cùng chịu cảnh tù binh với một lính Mỹ, từ đó có những chuyển biến trong nhận thức về con người, văn hóa Tây Nguyên và văn hóa Mỹ.
Những nỗ lực khi viết về vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc, chiến tuyến cũng chính là khát vọng hòa bình mà các tiểu thuyết viết về chiến tranh hướng tới.
Những dịch chuyển hướng tới chủ nghĩa nhân văn và sự đa dạng bút pháp nghệ thuật khiến cho tiểu thuyết Việt Nam viết về chiến tranh vang vọng xa hơn, có những tác phẩm đã vươn tới “tầm cao của văn học chiến tranh” thế giới.