Doanh nghiệp có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động khi bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Lao động 2012, người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi xảy ra thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác như: địch họa, dịch bệnh; di dời hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.
Do đó, doanh nghiệp có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động khi bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nếu đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc. Khi đó, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước theo quy định tại Bộ luật.
Người lao động sẽ được nhận trợ cấp thôi việc khi người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Theo Điều 48 Bộ luật Lao động 2012: Người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.
Trong đó, thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế trừ đi thời gian đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.
Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 6 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc.
Như vậy, khi bị nghỉ việc do dịch Covid-19, người lao động chỉ được nhận trợ cấp thôi việc mà không được nhận trợ cấp mất việc.
Ngoài ra, theo Nghị quyết số 42/NQ-CP do Chính phủ mới ban hành, người lao động bị chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp còn được hỗ trợ tối đa không quá 3 tháng với mức 1 triệu đồng/người/tháng. Thời gian áp dụng từ tháng 4 đến tháng 6/2020.