Thứ nhất, giáo viên môn ngoại ngữ cần quán triệt đầy đủ tầm quan trọng của các môn ngoại ngữ nói chung và môn tiếng Anh nói riêng trong việc phấn đấu đạt mục tiêu học tập.
Thực tế cho thấy, nhiều môn học sẽ gắn bó thường xuyên với cuộc sống làm việc của học sinh, trong đó có môn Ngoại ngữ… Học tốt tiếng Anh là một công cụ quan trọng giúp thanh niên Việt Nam thành công trong cuộc sống làm việc sau này.
Hãy đặt môn ngoại ngữ trong mối quan hệ biện chứng với các môn học khác để học sinh và gia đình thấy rằng đây là môn học cần thiết không thể thiếu ở trường phổ thông.
Thứ hai, sau mỗi giai đoạn kiểm tra đánh giá, giáo viên cần phân tích thật đầy đủ kết quả đạt được của học sinh. Cần so sánh kết quả của học sinh trong cùng lớp, học sinh giữa các lớp.
Từ đó phân nhóm học sinh để có những giải pháp bồi dưỡng hợp lý. Giáo viên giúp học sinh xóa bỏ cảm giác lo lắng, tự ti khi học ngoại ngữ bằng cách không ngừng tìm ra các giải pháp để làm cho môn học hấp dẫn lý thú.
Việc tổ chức phụ đạo, giao bài tập cho học sinh cần đảm bảo tính vừa sức, tránh giao việc quá tải, quá khó sẽ tạo ra cảm giác chán nản tự ti. Cần khen thưởng động viên kịp thời các cố gắng dù rất nhỏ của học sinh.
Bên cạnh cũng cố về kiến thức, giáo viên phải tăng cường thiết kế các hoạt động thiết thực tạo đều kiện cho học sinh nghe và nói tiếng Anh.
Thông qua các hoạt động trên, học sinh có cơ hội sử dụng những kiến thức của mình trong giao tiếp và các em sẽ phát hiện ra hứng thú khi có thể sử dụng những kiến thức mình có được trong giao tiếp thực tế bằng tiếng Anh.
Thứ ba, giáo viên nên vận động thành lập và bồi dưỡng các em học sinh có năng khiếu về ngoại ngữ. Việc làm này thực hiện theo hai mục tiêu: Một là, đào tạo các em học sinh giỏi để tham gia các cuộc thi cấp tỉnh và quốc gia; Hai là, mạnh dạng đăng ký thực hiện lớp tiếng Anh thí điểm để có một nhóm học sinh nòng cốt.
Qua hai chương trình đào tạo này, các em học sinh đã thể hiện được thế mạnh của mình và đã tạo được niềm tin về lợi ích của việc học ngoại ngữ cho tất cả các em học sinh khác thể hiện ở sự tự tin khi phát biểu, có khả năng giao tiếp cơ bản bằng tiếng Anh, hình thành các kỹ năng khác như thiết kế và sử dụng power point, thuyết trình trước đám đông, dần dần đã hình thành cho các em niềm tin rằng học sinh ở vùng sâu cũng có thể nói tiếng Anh giỏi.
Thứ 4, tài liệu dành cho môn tiếng Anh rất phong phú, đa dạng. Chính vì thế, ngoài sách giáo khoa, giáo viên cần tích cực tìm và chọn lọc các tư liệu từ nhiều nguồn như: Tìm qua mạng các tài liệu hay của các trường trên cả nước; thu thập có hệ thống từ các hội thảo tập huấn chuyên môn.
Tổ chuyên môn cần biên tập đề cương, xác định những yêu cầu trọng tâm của chương trình sao cho đảm bảo yêu cầu chương trình nhưng phù hợp với năng lực học sinh tại đơn vị.
Ngoài ra, giáo viên cũng đưa công nghệ thông tin vào việc giảng dạy nhiều hơn, ngoài việc thực hiện các tiết dạy trên lớp, giáo viên thành lập địa chỉ mail chung để phân công bài tập hoặc nhận bài làm của các em. Giáo viên giới thiệu các chương trình hoặc trang web để các em nghiên cứu thêm và tự học.
Nếu việc tổ chức hoạt động của giáo viên hợp lý, khoa học và có kiểm tra, học sinh sẽ tham gia một cách nhiệt tình. Cũng thông qua các hoạt động tự học này, giáo viên sẽ phát hiện ra những em có khả năng tốt và giúp các em phát huy khả năng của mình.
Thứ năm, tổ chức tốt việc dự giờ, đánh giá tiết dạy, phân tích đầy đủ ưu điểm và hạn chế các tiết thao giảng. Tại các cuộc họp chuyên môn, giáo viên nên tập trung bàn các giải pháp cải tiến nâng cao hiệu quả giảng dạy theo từng bài, từng tiết.
Ngoài ra, nhà trường có thể mời giáo viên trường khác ra đề thi diễn tập tốt nghiệp và thi thử đại học vừa để giao lưu kinh nghiệm vừa đánh giá khách quan kết quả giảng dạy của giáo viên.
Thứ sáu, hoạt động ngoại khóa giúp các em vượt qua cảm giác ngại nói tiếng Anh. Hoạt động này được tổ chức, tư vấn bởi giáo viên và sự động viên cổ vũ của bạn bè.
Thông qua hoạt động ngoại khóa, các em thấy tự tin hơn và cảm nhận rằng mình hoàn toàn có thể nói tiếng Anh. Hoạt động ngoại khóa cũng giúp giáo viên tìm ra được học sinh có năng khiếu bộ môn để rèn luyện và bồi dưỡng tuyển chọn cho các kỳ thi: học sinh giỏi, hùng biện, Olympic….
Từ đó tạo hạt nhân cho bộ môn và những học sinh này có thể giúp đỡ và hỗ trợ rèn luyện cho các học sinh khác để giúp nhà trường gầy dựng phong trào thực hành tiếng Anh.
Thứ bảy, qua thực tiễn 3 năm tổ chức kỳ thi nghe nói tiếng Anh đã giúp nhiều học sinh vượt qua cảm giác tư ti trong giao tiếp bằng tiếng Anh.
Do thiếu môi trường thực hành giao tiếp bằng ngoại ngữ nên đa số học sinh không áp dụng được kiến thức các em đã học và không có cơ hội rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng Tiếng Anh.
Vì vậy, thông qua kỳ thi nghe nói tập trung, học sinh có cơ hội trao đổi, chia sẽ về các chủ đề gần gủi với cuộc sống. Thực tiễn cho thấy, học sinh rất lo lắng trước khi cuộc thi diễn ra. Chính vì thế các em tăng cường tìm hiểu, rèn luyện.
Sau mỗi lần tham dự cuộc thi này, nhiều học sinh đã tiến bộ hẳn vì cảm thấy mình hoàn toàn có thể nói được tiếng Anh, thậm chí các em có thể đáp ứng được giao tiếp thông thường bằng tiếng Anh.
Thứ tám, giáo viên cần tìm ra cách dạy tiếng Anh dể nhớ, thiết kế các hoạt động bổ ích và sinh động nhằm giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên và nhẹ nhàng.
Việc tìm ra những qui tắc giúp học sinh dễ ghi nhớ bài học, ghi nhớ từ vựng sẽ giúp các em bớt nhọc nhằn trong việc học tiếng Anh. Những câu vè, những hình ảnh liên hệ, sự tương đồng về âm thanh trong tiếng Việt và tiếng Anh sẽ giúp học sinh hứng thú tìm hiểu và tích cực ghi nhớ. Các em sẽ không cảm thấy học tiếng Anh là một việc hết sức khó khăn và vất vả.
Giáo viên có thể sử dụng 10 phút đầu giờ để giúp học sinh thực hành nói tiếng Anh thay vì kiểm tra bài cũ bằng những công thức khô khan và khó nhớ. Ví dụ: Khi học bài 12 của chương trình Lớp 10, giáo viên có thể cho học sinh nói tiếng Anh về chủ đề âm nhạc.
Để nhiều học sinh có cơ hội nói tiếng Anh và học được nhiều cấu trúc ngữ pháp và từ vựng, giáo viên đặt câu hỏi và yêu cầu mỗi học sinh phải trả lời bằng một phương án khác nhau, câu trả lời không được trùng nhau, học sinh trả lời trước sẽ ít bị trùng ý và sẽ không bị phạt (cần thống kê lại tất cả các câu hỏi và câu trả lời).
Học sinh sẽ trả lời cho đến khi các em không tìm ra từ vựng để trả lời cho câu hỏi đó. Thông qua mỗi câu hỏi, tất cả học sinh trong lớp sẽ học được nhiều từ vựng từ bạn bè. Câu trả lời hay sẽ được thưởng. Trong vòng 10 phút đầu của tiết học, giáo viên có thể đặt từ 2-3 câu hỏi.
Nếu áp dụng tốt cho nhiều tiết học, giáo viên sẽ rèn luyện dần cho học sinh nói tiếng Anh chứ không riêng tiết speaking. Cách làm này sẽ giúp học sinh yêu thích môn tiếng Anh và góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn này.
"Chất lượng tiết dạy và thái độ tiếp nhận của học sinh chịu tác động khá lớn từ phương pháp giảng dạy của người giáo viên. Tiếng Anh là bộ môn đòi hỏi khả năng thiết kế hoạt động và điều khiển tiết dạy của người thầy.
Thay vì các em phải trả bài những từ vựng riêng rẽ, những công thức khô cứng thì các em có thể thể hiện một bài hát tiếng Anh, cùng các bạn diễn một vở kịch ngắn, nói một đoạn hội thoại trước cả lớp, không khí lớp học sẽ vui tươi và các em rất sẳn sàng thể hiện niềm yêu thích của mình"- cô Trương Mi Kim.