Bệnh không lây nhiễm: Siết chặt chính sách phòng bệnh

GD&TĐ - Mỗi năm, Việt Nam ghi nhận hơn 520.000 ca tử vong do bệnh không lây nhiễm, chiếm 77% tổng số ca tử vong trên toàn quốc.

Bệnh nhân khám sàng lọc bệnh tiểu đường. Ảnh minh họa: TT
Bệnh nhân khám sàng lọc bệnh tiểu đường. Ảnh minh họa: TT

44% trong số đó là ca tử vong sớm ở người dưới 70 tuổi. Do đó, để phòng bệnh không lây nhiễm hiệu quả, việc có các biện pháp mang tính ràng buộc, cũng như một lộ trình hành động là vô cùng cần thiết.

Thách thức lớn từ nguy cơ tiềm ẩn

Thực trạng số ca tử vong cao do bệnh không lây nhiễm đã và đang đặt ra thách thức lớn đối với hệ thống y tế và sự phát triển bền vững của nước ta. Trong bối cảnh đó, một câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Liệu các ưu tiên trong chính sách và truyền thông đã phản ánh đúng mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố nguy cơ hay chưa?

Chia sẻ về vấn đề này, TS.BS Hoàng Thị Đức Ngàn - Viện Dinh dưỡng (Bộ Y tế) cho biết, người Việt đang ăn thừa muối, thiếu rau xanh. Trung bình, mỗi người Việt Nam đang tiêu thụ trên 8g muối mỗi ngày, cao gần gấp đôi so với khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) (5 g/ngày).

Trong khi đó, lượng rau xanh tiêu thụ chỉ đạt khoảng 65% mức khuyến nghị. Đặc biệt, ở các vùng thành thị, người dân đang tiêu thụ nhiều thực phẩm chế biến sẵn, thức ăn nhanh và đồ uống có đường. Đây là những thực phẩm nếu tiêu thụ không hợp lý sẽ làm gia tăng nguy cơ các bệnh không lây nhiễm.

TS Ngàn cảnh báo: “Những thói quen ăn uống này là một yếu tố nguy cơ tiềm ẩn. Chúng không gây ra hậu quả ngay lập tức mà tích tụ từng ngày, dẫn đến thừa cân, béo phì, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu và cuối cùng là các bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư. Gánh nặng bệnh tật do dinh dưỡng bất hợp lý là vô cùng lớn nhưng lại chưa được cộng đồng nhìn nhận một cách đúng mức”.

Tuy nhiên, TS Ngàn cũng nhấn mạnh, phổ tác động của dinh dưỡng rất rộng, bao trùm toàn xã hội vì ai cũng phải ăn uống hằng ngày. Do đó, tiềm năng can thiệp cũng vô cùng lớn. Để đạt được hiệu quả can thiệp trên diện rộng, TS Ngàn cho rằng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên ngành, từ nông nghiệp, công thương đến giáo dục, truyền thông, y tế.

Thách thức lớn nhất không chỉ nằm ở việc giáo dục hành vi cho người dân, mà còn đòi hỏi sự tham gia bắt buộc của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm. Ví dụ, khi Viện Dinh dưỡng khuyến cáo giảm muối, đường, chất béo chuyển hóa (trans fat) trong các thực phẩm chế biến sẵn, thì rất cần sự hợp tác và tuân thủ của các doanh nghiệp trong cải tổ công thức sản phẩm, mang lại lợi ích sức khỏe thực chất cho người tiêu dùng.

Trong khi đó, TS.BS Nguyễn Thị Hồng Diễm - Cục Phòng bệnh (Bộ Y tế) cho biết, mức tiêu thụ cồn nguyên chất bình quân của người Việt Nam từ 15 tuổi trở lên là 9,34 lít/năm, cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu (5,5 lít) (theo số liệu năm 2019).

Đáng lo ngại, 44,2% nam giới đang uống rượu bia ở mức nguy hại (theo số liệu năm 2015) và 53,1% học sinh từng uống rượu bia đã có lần đầu tiên uống trước 14 tuổi (theo số liệu năm 2019). Theo bà Diễm, việc sử dụng rươu bia là nguyên nhân gián tiếp của 200 loại bệnh, chấn thương và là nguyên nhân trực tiếp của ít nhất 30 bệnh.

Cần hành động pháp lý

Trước đó, Việt Nam đã ban hành nhiều kế hoạch quốc gia và khung pháp lý liên quan, như Chiến lược quốc gia phòng, chống bệnh không lây nhiễm, Chương trình Sức khỏe Việt Nam và gần đây là dự thảo Luật Phòng bệnh. Song, nhiều giải pháp vẫn chưa tiếp cận được gốc rễ hành vi, đặc biệt trong lĩnh vực dinh dưỡng và tiêu dùng thực phẩm.

PGS.TS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) cho rằng, các quy định hiện hành đang thiên về khuyến cáo, tuyên truyền. Song, chưa đủ các biện pháp mang tính ràng buộc, nhất là trong việc kiểm soát thực phẩm có nguy cơ cao như nước ngọt, đồ uống nhiều đường, thực phẩm siêu chế biến.

Ông nhận định: “Chúng ta có thể học hỏi kinh nghiệm từ phòng chống thuốc lá - nơi chính sách thuế, nhãn cảnh báo và giới hạn quảng cáo đã tạo hiệu ứng hành vi rõ rệt. Với dinh dưỡng, cũng cần những chính sách cứng rắn hơn thay vì chỉ dừng ở hướng dẫn”.

Cũng theo PGS.TS Trần Đắc Phu, trọng tâm của chiến lược quốc gia và Luật Phòng bệnh trong tương lai chính là kiểm soát các yếu tố nguy cơ từ sớm, từ gốc. Do đó, chúng ta cần một hệ thống có thể sàng lọc, phát hiện sớm và quản lý những người có nguy cơ cao ngay tại cộng đồng, trước khi họ trở thành bệnh nhân.

Do đó, để phòng chống bệnh không lây nhiễm hiệu quả hơn, cần đưa ra một lộ trình hành động. Trong đó, cần chú trọng nâng cao vai trò của chính sách dinh dưỡng, nghiên cứu, xây dựng và ban hành chính sách ghi nhãn cảnh báo sức khỏe mặt trước sản phẩm (FOPL) bắt buộc.

Song song đó, cần hoàn thiện chính sách với rượu bia. Cụ thể, nghiên cứu chuyển đổi cách tính thuế sang thuế tuyệt đối theo nồng độ cồn và có thể thí điểm chính sách giá sàn (MUP) để giải quyết vấn đề rượu bia giá rẻ.

Các chuyên gia cho rằng, một biện pháp khác là áp dụng lệnh cấm toàn diện việc quảng cáo thực phẩm không lành mạnh (HFSS) nhắm đến trẻ em, gắn liền với hệ thống nhãn FOPL. Đồng thời, tăng cường truyền thông dựa trên bằng chứng.

Trong đó, Nhà nước cần chủ động xây dựng các kênh truyền thông chính thống, mạnh mẽ để cung cấp thông tin khoa học, chống lại các tin đồn sai lệch về dinh dưỡng và sức khỏe. Tăng cường các chính sách khuyến khích vận động thể lực, như tích hợp vào quy hoạch đô thị, phát triển giao thông công cộng và không gian đi bộ an toàn.

Bệnh không lây nhiễm được xem là nhóm bệnh tiến triển âm thầm, khó phát hiện sớm nếu không khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc tại cộng đồng. Tuy nhiên, nhiều người dân vẫn chủ quan, chỉ đi khám khi đã có những dấu hiệu sức khỏe xuống dốc trầm trọng. Vì vậy, việc phát hiện các bệnh không lây nhiễm thường ở giai đoạn muộn, gây biến chứng.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Minh họa/INT

Lối ra cho Trung Đông

GD&TĐ - Ba năm sau khi được Ả-rập Xê-út đưa ra lần đầu vào năm 2022, Sáng kiến Hòa bình Ả Rập nay đã có bước phát triển mới.