Báu vật gia bảo của dòng học Bình Ngô khai quốc công thần Phạm Văn Liêu

Báu vật gia bảo của dòng học Bình Ngô khai quốc công thần Phạm Văn Liêu

Hàng năm, Hội đồng họ Phạm Bắc Giang tổ chức tưởng niệm ngày mất của ông và ôn lại những chiến công hiển hách của một vị tướng có công lớn chống ngoại bang. 

Kỷ vật còn lại

Ở trên núi Cấm ven dòng sông Thương, còn di tích phần mộ và đền thờ lưu niệm danh tướng Phạm Văn Liêu, là nơi hậu duệ của tướng quân vẫn thường ngày nhang khói phụng thờ. 

Di tích này đã được xếp hạng cấp quốc gia nhưng ít ai biết, thậm chí có thời kỳ xuống cấp nghiêm trọng và đến năm 2013 mới được dòng tộc hưng công trùng tu vững chãi như hiện nay. 

Tại đây còn lưu giữ những cổ vật còn khá nguyên trạng như Sổ Hội đồng, bia đá, đồ thờ, 27 đạo sắc phong và hoành phi, câu đối, tàn lọng, cờ xí, kiệu rước, hòm tráp đựng giấy tờ của danh tướng và bát biểu thời Lê. Đặc biệt là cầu vai của tướng quân, yếm đào và đôi hài của công chúa Thiều Dương - Lê Thị Ngọc Khanh (con gái vua Lê Thánh Tông lấy Phạm Đức Hóa là con trai Phạm Văn Liêu) được thêu tay rất tinh xảo...

Báu vật gia bảo của dòng học Bình Ngô khai quốc công thần Phạm Văn Liêu ảnh 1
Ông Phạm Văn Côn bên sắc phong tại đền thờ Phạm Văn Liêu.

Với dáng vẻ chất phác, đầy khắc khổ của một nông dân, ông Phạm Văn Côn (64 tuổi) hậu duệ đời thứ 19 của dòng họ Phạm hiện sống tại thôn Chùa run run bưng chiếc hòm cũ kỹ ngả màu thời gian giới thiệu: “Ngày ấy cha giao lại cho tôi hòm này rồi bảo, đây là áo mũ của tướng quân Phạm Văn Liêu và công chúa Thiều Dương có cách đây chừng 600 năm. 

Trước khi mất, bố tôi còn dặn: Mất tiền, mất gạo còn kiếm được chứ mất sắc phong thì không bao giờ có được nữa. Các con phải hết sức giữ gìn, đó là báu vật của dòng họ Phạm ta, vì thế bằng mọi giá con không được thất lạc”. 

Thấm nhuần lời dạy ấy của thân phụ, ông Côn đã gìn giữ báu vật gia truyền một cách thận trọng suốt ngần ấy năm và không phải ai cũng được ông mở cho xem hòm này. 

Những năm chống Mỹ, đạn bom bắn phá dữ quá nên cả làng phải bỏ xứ chạy sơ tán khắp nơi, và trong hành trình ấy ông Côn luôn giữ khư khư chiếc hòm bên mình như những báu vật gia bảo.

Ở một chiếc thùng gỗ khác là 28 sắc phong niên đại sớm nhất từ thời Lê Lợi, trong đó ghi chép khá chi tiết về công lao của Phạm Văn Liêu. Thời gian đã làm cho một số sắc phong bị hoen ố, có sắc bị mối xông nham nhở. Trải qua bao biến cố, thăng trầm, trang phục của tướng quân tuy một số đã bị mục nhưng vẫn còn bộ khá nguyên vẹn với họa tiết, hoa văn cầu kỳ.

Xứng danh Đô đốc Khang ngũ hầu

Báu vật gia bảo của dòng học Bình Ngô khai quốc công thần Phạm Văn Liêu ảnh 2
Hậu duệ của Phạm Văn Liêu dâng hương tri ân công đức tiền nhân.

Kể về cuộc đời tướng quân Phạm Văn Liêu, ông Côn thuộc vanh vách bởi trong nhà ông đang giữ cả những bộ hồ sơ, lý lịch mà cách đây hơn 20 năm các cán bộ Bảo tàng tỉnh Bắc Giang đã về dịch thuật từ bia đá, sắc phong ra tiếng Việt. 

Các nhà nghiên cứu văn hóa Bắc Giang đã tra cứu, tìm hiểu khá kỹ về Bình Ngô khai quốc công thần Phạm Văn Liêu. Theo đó, ông là con Đô đốc đồng tri Phạm Văn Thánh, ở thôn Nguyên Xá, xã hương Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Thiên, xứ Thanh Hóa. Ông là vị tướng tài, có công giúp vua Lê Lợi đánh bại nhiều đợt tấn công xâm lược của nhà Minh (thế kỷ XV). 

Lê Lợi đã cử ông về Bắc Giang cùng với các tướng Lê Sát, Trần Nguyên Hãn, Lê Vấn… tổ chức vây đánh và hạ thành Xương Giang. Trong đại chiến tiêu diệt viện binh nhà Minh trên chiến trường Xương Giang, Phạm Văn Liêu chỉ huy một đạo quân mật phục ven bờ sông Thương (vùng Xuân Hương, Mỹ Thái, huyện Lạng Giang ngày nay) rồi đồng loạt tổng công kích tiêu diệt và bắt sống hơn 7 vạn viện binh nhà Minh vào cuối năm 1427. 

Tháng 10/1427, Lê Lợi đại phá quân Minh, phát truyền “Đại Cáo Bình Ngô”, mở tiệc khải hoàn phong thưởng cho quân sĩ và ghi trong Sổ Hội đồng để truyền lại muôn đời cho con cháu được hưởng lộc đất nước. Phạm Văn Liêu được phong Bình Ngô khai quốc công thần, chức vụ Tả sa kỵ Đại tướng quân và được nhà Lê chính thức đưa vào tập Sổ Hội đồng.

Sổ Hội đồng cho biết: Phạm Văn Liêu đứng thứ 89 trong số 122 tướng lĩnh của Lê Lợi. Đến đời vua Lê Thánh Tông (niên hiệu Hồng Đức thứ 15), ông được tặng danh hiệu Đô đốc Khang ngũ hầu, Thái úy Khang quốc công và cấp nhiều thực ấp ở xứ Kinh Bắc (nay gồm Bắc Giang, Bắc Ninh) và sinh cư lạc nghiệp tại xóm Chùa, xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang. 

Ngày 5/9 năm Diên Ninh thứ 4 (1457), Phạm Văn Liêu tạ thế, mộ phần đặt tại thôn Chùa. Ông được xem là thủy tổ họ Phạm tại vùng Lạng Giang ngày nay.

Trăm năm đá nát vàng phai

Theo các hồ sơ ghi chép về di tích đền thờ Phạm Văn Liêu thì ông có hai người con (một trai, một gái). Người con gái được tuyển vào cung sau được phong làm Minh Phi. 

Sách Đại Việt thông sử do Lê Quý Đôn cho biết: Phạm Minh Phi (vợ vua Lê Thánh Tông) được tuyển vào cung ngày Mậu Ngọ tháng 7 niên hiệu Quang Thuận thứ 2 (1461). Tháng 9 ngày Đinh Mùi được phong Tiệp dư. Ngày Nhâm Dần, niên hiệu Quang Thuận thứ 6 (1465) được thăng Tu viên. Ngày Quý Sửu tháng 6 năm Hồng Đức thứ 2 (năm 1471) thăng làm Chiêu viên. Ngày Bính Dần tháng 11/1477 tiến phong là Minh Phi được ở cung Thụy Đức. 

Năm 1497 vua Thánh Tông mất. Năm Cảnh Thống thứ nhất (1498) vì bà là cung phi triều trước nên phụng sự ở cung Thiên An không bao lâu thì bị bệnh. Ngày Giáp Ngọ tháng 9 bà mất, thọ 50 tuổi được vua ban 27 vạn quan tiền và sai người mang về an táng ở cánh đồng Linh Hòa thuộc huyện Lạng Giang.

Tỉnh Bắc Giang có 15 ngôi đình thờ danh tướng Phạm Văn Liêu và công chúa Thiều Dương làm Phúc thần hoặc Thành hoàng. TP Bắc Giang nay đã có tên đường mang tên Phạm Văn Liêu chạy dọc giữa làng Thành - làng Vẽ (phường Thọ Xương và phường Xương Giang), nơi ghi dấu chiến công của danh tướng Phạm Văn Liêu trong trận công đồn Xương Giang oanh liệt mùa thu năm 1427.

Người con thứ hai của Phạm Văn Liêu là Phạm Đức Hóa, được vinh phong Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Tư Đô kiểm điểm, tước Hoa Phong bá (sau được tặng Hoa Phong hầu) được kén làm Phò mã. 

Phạm Đức Hóa lấy con gái thứ 8 của vua Lê Thánh Tông Thuần Hoàng đế là Thiều Dương công chúa. Như vậy, Phạm Đức Hóa vốn là em vợ, sau được kén làm con rể (phò mã) của đức vua Lê Thánh Tông. Còn người cha Phạm Đình Liêu vừa là bố vợ, vừa là thông gia của vị hiền vương này. 

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ