24 tiết khí hằng năm

GD&TĐ - Vì bố trí các tháng thiếu, đủ, thường, nhuận bám sát chuyển động biểu kiến của nguyệt cầu, nên âm lịch còn được người Âu Mỹ gọi lịch Mặt trăng/lunar calendar (tiếng Anh)/calendrier lunaire (tiếng Pháp).

Sơ đồ 24 tiết khí
Sơ đồ 24 tiết khí

Kỳ thực, âm lịch cũng gắn bó chặt chẽ với Mặt trời mà tiết khí (chữ Hán phồn thể ghi 節氣, giản thể ghi 节气) là biểu hiện cụ thể.

Xuất xứ từ tộc người Bách Việt, nhị thập tứ tiết khí/二十四节气 ghi nhận 24 điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái đất xung quanh Mặt trời, mỗi điểm cách nhau 15 độ. Vì quỹ đạo này hình elip (tiếng Anh và tiếng Pháp ghi ellipse) chứ chẳng phải hình cầu, nên vận tốc di chuyển của Trái đất xung quanh vầng thái dương không phải một hằng số; do đó thời gian giữa các tiết khí không phải là con số cố định, mà khoảng cách giữa 2 tiết khí kề nhau dao động 14~16 ngày.

Hằng năm, nhị thập tứ tiết khí thật sự là 24 thời kỳ nối tiếp nhau với những biến dịch mang tính chu kỳ và tuần hoàn về nhiệt độ, độ ẩm, lượng gió, lượng nắng, lượng mưa... trên mặt đất khu vực Á Đông - do vị trí địa cầu thay đổi khi quay quanh Mặt trời, đồng thời địa cầu lại tự quay quanh trục của nó. Do đó, đã có ý kiến đề nghị gọi âm lịch là âm - dương lịch.

Nhị thập tứ tiết khí được đặt tên và sắp xếp thứ tự như sau:

1.立春/ Lập xuân (đầu xuân);

2. 雨水/ Vũ thuỷ (ẩm ướt);

3. 驚蟄/ Kinh trập (sâu nở);

4. 春分/ Xuân phân (giữa xuân);

5. 清明 / Thanh minh (trong sáng);

6. 穀雨 / Cốc vũ (mưa rào);

7.立夏/ Lập hạ (sang hè);

8. 小滿/ Tiểu mãn (kết hạt/duối vàng);

9. 芒種/ Mang chủng (chắc hạt/tua rua);

10. 夏至/Hạ chí (giữa hè);

11. 小暑/Tiểu thử (nắng oi);

12. 大暑/Đại thử (nóng nực);

Sơ đồ 24 tiết khí

13.立秋/Lập thu (đầu thu);

14. 處暑/Xử thử (mưa ngâu);

15. 白露/Bạch lộ (nắng nhạt);

16. 秋分/Thu phân (giữa thu):

17. 寒露/Hàn lộ (mát mẻ);

18. 霜降/Sương giáng (sương sa);

19.立冬/Lập đông (sang đông);

20. 小雪/Tiểu tuyết (hanh heo);

21. 大雪/Đại tuyết (khô úa);

22. 冬至/Đông chí (giữa đông);

23. 小寒/Tiểu hàn (chớm rét);

24. 大寒/Đại hàn (lạnh giá).

Nhị thập tứ tiết khí chia thành 4 mùa, mỗi mùa bắt đầu bằng tiết khí Lập: Lập xuân, Lập hạ, Lập thu, Lập đông. Phân định mùa vậy chỉ đúng cho Bắc bán cầu trái đất. Với các nước phương tây, 4 mùa hàng năm được phân định bằng 4 thời điểm Xuân phân, Hạ chí, Thu phân, Đông chí.

Trong 24 thời kỳ nêu trên, những thời kỳ mang số lẻ gọi là tiết, mang số chẵn gọi là khí hoặc trung khí. Theo quy ước, tháng nào không chứa trung khí là tháng nhuận; riêng các tháng 11, chạp và giêng thì không nhuận. Để giản tiện, nhân dân vẫn gọi chung là tiết cả. Ví dụ: tiết Tiểu hàn, tiết Đại hàn.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Binh sĩ thuộc Đội chiến đấu Lữ đoàn 1, Sư đoàn Dù 82 của quân đội Mỹ.

Điều gì đã xảy ra với quân đội Mỹ?

GD&TĐ - Ngày thứ bảy lần ba của tháng 5 được Mỹ vinh danh là Ngày Lực lượng Vũ trang, một ngày lễ tôn vinh tất cả các thành viên của quân đội nước này.