Uy lực chiến hạm Đinh Tiên Hoàng của hải quân Việt Nam

Cùng với tàu ngầm Kilo 636, chiến đấu cơ Su30MK2 và tên lửa chống hạm siêu âm Yakhont của hệ thống Bastion-P, Gepard 3.9 sẽ giúp quân đội Việt Nam có được năng lực tiến công trên không, dưới nước và trên mặt nước.

Tàu hộ vệ tên lửa Đinh Tiên Hoàng mang số hiệu HQ-011. Ảnh: Trọng Thiết.
Tàu hộ vệ tên lửa Đinh Tiên Hoàng mang số hiệu HQ-011. Ảnh: Trọng Thiết.

Cập cảng Cam Ranh ngày 5/3/2011 và được biên chế vào lực lượng hải quân Việt Nam ngay sau đó, chiến hạm "Đinh Tiên Hoàng” lớp Projekt 11661E Gepard 3.9 do nhà máy đóng tàu A.M Gorky ở Zelenodolsk của Nga đóng theo hợp đồng đã ký kết với Hải quân Việt Nam cuối năm 2006.

Phía Nga và Việt Nam đã ký hợp đồng trị giá 350 triệu USD, đóng 2 chiến hạm lớp Gepard 3.9 của Viện thiết kế ZPKB ở Zelenodolsk. Đây là chiến hạm đầu tiên được khởi đóng tháng 7/2007. Theo đánh giá của ông Renat Mistakhov, Giám đốc công ty A.M Gorky, Gepard 3.9 đã thể hiện tính năng chiến - kỹ thuật cao trong suốt quá trình thử nghiệm trên biển Baltic.

Cùng với tàu Lý Thái Tổ tiếp nhận sau Đinh Tiên Hoàng, đây là lần đầu tiên Hải quân Việt Nam sở hữu những tàu chiến lược mặt nước có lượng giãn nước trên 2.000 tấn. Nhờ đó, Hải quân Việt Nam đã "tạm biệt" thời đại hoạt động ven bờ, chuyển sang giai đoạn hoạt động ở khu vực biển gần.

Gepard 3.9 sử dụng hệ thống chỉ huy, kiểm soát Sigma-E loại mới nhất của Nga, nên những tàu này đã nhất thể hóa được việc kiểm soát hệ thống hỏa lực. Ngoài ra, nhờ được trang bị hệ thống trinh sát, gây nhiễu điện tử thế hệ mới MP-407E nên Gepard 3.9 sẽ giúp Hải quân Việt Nam nâng cao đáng kể năng lực tác chiến điện tử.

Cùng với tàu ngầm Kilo 636, máy bay chiến đấu đa năng Su30MK2 và tên lửa chống hạm siêu âm Yakhont của hệ thống Bastion-P (có tầm bắn 300 km, đặt trên bờ), Gepard 3.9 sẽ giúp quân đội Việt Nam chính thức có được năng lực tiến công đa năng 3 trong 1 (trên không, dưới nước và trên mặt nước) ở khu vực biển gần, đặc biệt là việc nâng cao đáng kể khả năng chống ngầm.

Với sự phối hợp tác chiến đa chiều, Việt Nam cũng cơ bản hình thành được năng lực phòng thủ biển gần tương đối hiệu quả. Năng lực kiểm soát và tấn công của Hải quân Việt Nam sẽ mở rộng, cho phép thực hiện chiến lược chống tiếp cận có chiều sâu.

Hai tàu hộ vệ tên lửa hiện đại nhất Việt Nam trên quân cảng Cam Ranh

Hai tàu hộ vệ tên lửa hiện đại nhất Việt Nam trên quân cảng Cam Ranh: Ảnh:Nguyễn Nam Anh.

Những năm đầu của thập niên 1980, lực lượng hải quân Nga yêu cầu thế hệ tầu tuần biển mới phục vụ cho nhiệm vụ quản lý biển và khu vực bờ biển.

Đấy cũng là yêu cầu làm thay đổi thiết kế mẫu tầu tuần biển tên lửa frigate Nheustrasim dự án 11540 trong việc ra quyết định cuối cùng để giải quyết các nhiệm vụ trên biển, với mô hình tầu khu trục biển nhằm thay thế cho các tầu khu trục nhẹ dự án 1135 (Burevetnhik).

Đồng thời, Trung tâm thiết kế tầu tại nước cộng hòa Tatarstan đã thiết kế loại tầu tuần biển nhỏ hơn mang tên lửa, đó là Dự án 11660 Gepard. Nhà thiết kế chính là Iu.A. Nhicol, sau đó là V.N.Kaskin nhằm thiết kế tầu tuần biển có khả năng chống ngầm và đánh chặn tầu nổi theo dự án 1124.

Yêu cầu của Hải quân Liên bang và hạm đội là lắp đặt trên tầu một đài quét sonar công suất lớn, có khả năng thực hiện nhiệm vụ chống ngầm hiệu quả, đồng thời tăng lượng giãn nước của tầu lên đến hơn 2000 tấn bằng việc tăng các khoang chống thấm nước trên thân tầu.

Thời điểm đó xuất hiện một dự án cạnh tranh là dự án 12441 của "Trung tâm thiết kế tầu biển Almaz” với các tên lửa chống tầu mạnh và khả năng mang theo máy bay trực thăng tuần biển và cứu hộ. Cuối năm 1988 Almaz đưa ra dự án tầu SKP 11660, nhưng được một thời gian, chương trình đóng loại tầu này đã khép lại do lý do tài chính.

Kết quả, Trung tâm thiết kế tầu PKB Zeliondonsk đã thiết kế một số mẫu nâng cấp tầu tuần biển tên lửa, trong đó có những mẫu dành cho xuất khẩu - dự án 1166.1 Gepard. Trên cơ sở các thiết kế đã có trung tâm PKB tiến hành xây dựng mẫu tầu Gerpad 3.9 tại nhà máy đóng tầu Zeliondonsk mang tên Gorki. 

Chiếc tầu đầu tiên của họ Gepard được bắt đầu năm 1993 và năm 1995 tầu đã sẵn sàng đưa vào thử nghiệm, nhưng vì lý do tài chính, quá trình đóng tầu bị tạm dừng đến 1996.

Năm 2001 tầu họ Gepard mang tên Tatarstan được biên chế vào hạm đội và trở thành tầu chỉ huy của hải đội biển Caspian, chiếc tầu thứ 2 của dự án 1166.1 Dagestan được hạ thủy năm 2007. Giai đoạn này, 2 chiếc tầu tiếp theo của mẫu tầu tuần biển Gepard 3.9 được đóng theo đơn đặt hàng của Hải quân Việt Nam từ 2009 đến 2011.

Mô hình tàu của Việt Nam

Mô hình tàu Gepard 3.9 của Hải quân Việt Nam.

Tàu tàng hình đa nhiệm 

Tầu tuần biển loại Gepard 3.9 lớp Tatarstan dự án 11661 được thiết kế thực hiện các nhiệm vụ chống tầu ngầm, tầu nổi và các mục tiêu trên không của địch khi thực hiện các nhiệm vụ hộ tống các tầu chiến, tầu vận tải, các đoàn tầu cơ động, tiến hành các nhiệm vụ cảnh giới biển, bảo vệ hải giới và thềm lục địa, bảo vệ các khu vực kinh tế biển và bảo vệ các khu vực biển gần. 

Vũ khí trang bị và phương tiện kỹ thuật của tầu cho phép thực hiện các nhiệm vụ được giao với hiệu quả cao nhất. Đồng thời, các thiết kế kỹ thuật phải cho phép tầu có khả năng nâng cấp và cải tiến trên cơ sở thân tầu.

Thiết kế của tầu được thực hiện với các mặt phẳng truyền thống với 12 khoang không thấm nước, khả năng tầu vẫn hoạt động tốt nếu có 3 khoang bị trúng đạn tách rời nhau, các thiết kế trên boong tầu được chế tạo từ vật liệu tổng hợp nhôm ma-gie có khả năng hấp thụ đến tối thiểu mức phản xạ hiệu dụng của sóng radar (công nghệ stealth) tầu được lắp động cơ nguồn diezen và 2 động cơ gas tuốc bin 2 trục cho công suất lên đến 29.000 mã lực.

Hệ thống động lực kiểu CODOG bao gồm động cơ diezen loại 61D (8000 mã lực) đảm bảo cho tầu chạy ở tốc độ hành trình 18 hải lý/giờ, 2 động cơ tuốc bin khí gas có thể đẩy vận tốc tối đa của tầu lên đến 28 hải lý/giờ. Có 3 máy phát điện diezen 600 kWh cho mỗi máy phát.

Để tăng cường khả năng cơ động và tác chiến độc lập của tầu trên biển, các nhà thiết kế đã tăng cường khả năng hải trình của tầu từ 9 ngày (không phải bổ sung nhiên liêu và cơ sở vật chất) lên đến 20 ngày và tầm hoạt động (với tốc độ hải trình 18 hải lý/giờ) từ 2500 hải lý lên 3500 hải lý. 

Tầu được trang bị hệ thống tên lửa chống tầu thế hệ mới nhất XЗ5 3M24 Uran, tăng cường khả năng tác chiến của tầu so với các loại tầu tuần biển khác. Hệ thống sonar MGK-335EM-03 có góc quét 260 độ, phát hiện được tàu ngầm ở bán kính 10 - 12 km, thủy lôi ở cự ly 2 km và 2 thiết bị phóng ngư lôi cỡ nòng 533 mm.

Thông số kỹ thuật của tàu Gepard 3.9

Lượng giãn nước đầy tải: 2.100 tấn; Kích thước ngoài (dài x rộng x mớn nước): 102,2 x 13,1 x 5,3m; Tốc độ tối đa: 28 hải lý/h, tốc độ hành trình: 18 hải lý/giờ; Tầm hoạt động ở tốc độ hải trình tuần biển: 5.000 hải lý; Dự trữ nhiên liệu hoạt động: 20 ngày; Sử dụng vũ khí không hạn chế trong điều kiện biển động tới cấp 5; Động cơ chính: 2x11.000 hp; Thủy thủ đoàn: 103 người với 16 vị trí dự trữ dành cho hải quân đặc nhiệm.

Vũ khí trang bị trên chiến hạm Đinh Tiên Hoàng

Ngoài việc theo dõi, tìm kiếm và tiêu diệt các mục tiêu trên không, trên biển, chống ngầm và tích hợp hàng loạt vũ khí hiện đại, chiến hạm Gepard 3.9 Đinh Tiên Hoàng còn có khả năng tàng hình.

Tên lửa đối hạm: 4x4 ống phóng tên lửa đối hạm Uran-E Kh-35 (16 quả 3M24, tầm bắn 130 km). Tầm hoạt động của tên lửa: 5 - 130 km; Tốc độ tên lửa hành trình: до 300 m/s; Độ chính xác dẫn bắn (КВО): 4 - 8 m; Khối lượng đầu đạn: 145 kg.

Tên lửa đối hạm tầm bắn 130 km.

Tên lửa đối hạm tầm bắn 130 km.

Pháo hạm: Vũ khí pháo của tàu gồm tổ hợp pháo AK-176M cỡ nòng 76,2mm (152 quả) và bệ pháo kép tự động AK-630M cỡ nòng 30mm (2.000 quả) bảo đảm tiêu diệt các mục tiêu trên không bay thấp, các mục tiêu mặt đất và dưới biển. Tốc độ bắn của AK-176M từ 60 - 120 phát/phút, bảo đảm tiêu diệt các mục tiêu trong khu vực với phạm vi lớn hơn 15km và độ cao 11,5 km. Tốc độ bắn của AK-630M đến 5.000 phát/phút với xác suất tiêu diệt các mục tiêu tầm thấp cao (trong đó gồm các loại tên lửa chống hạm) và ở cự ly đến 4.000 m (các mục tiêu nổi hạng nhẹ đến 5.000 m). Cự ly tiêu diệt máy bay (tên lửa chống hạm) từ 11,5-10 (1,2-35) km và độ cao từ 15 - 6.000 m.

Hệ thống pháo/tên lửa phòng không Palma, tầm bắn tối đa với tên lửa 8.000 m, đối với pháo là 4.000 m, được điều khiển bằng quang - điện và hỗ trợ dữ liệu từ radar. 2 súng máy phòng không 14.5 mm

Radar tự dẫn đầu đạn tên lửa chống hạm.

Radar tự dẫn đầu đạn tên lửa chống hạm.

Chống ngầm: 2 ống phóng kép cho ngư lôi 533mm; Hệ thống phóng bom ngầm RBU-6000 với 12 ống; Hệ thống kiểm soát hỏa lực chống ngầm Purga;

Hệ thống kiểm soát hỏa lực và trinh sát mục tiêu: Radar Laska có khả năng vừa sục sạo vừa bám các mục tiêu từ khoảng cách tới 30 km, dùng để điều khiển pháo các cỡ từ 30 tới 76 mm nhằm tiêu diệt các mục tiêu như máy bay, tên lửa và tàu nổi cỡ nhỏ. Nó được tích hợp với các kênh quang truyền hình và quang hồng ngoại; Hệ thống SP-521 Rakurs radar - sonar điều khiển tầu

Trực thăng: Ka-28 ASW chống ngầm (hoặc Ka-31 mang radar chuyên nhiệm cảnh báo sớm) có hangar (khoang chứa) và bãi đậu.

Hệ thống tác chiến điện tử: Hệ thống MP-407E ECM system; Hệ thống mồi bẫy PK-10 (4x10 ống phóng). Thiết bị định vị: Hệ thống định vị Gorizont-257 kết hợp cùng radar Gorizont-25; Hệ thống EKNIS MK-54IS và GPS NT200D. Hệ thống quản lý thông tin tác chiến: Hệ thống Sigma-E:
Hệ thống nhận dạng mục tiêu: Thiết bị 67R IFF; Thông tin liên lạc: Hệ thống thông tin liên lạc tự động Buran-6VE.

Pháo hạm gắn trên tàu.

Pháo hạm gắn trên tàu.

Thiết bị điện tử - radar: Radar mảng pha 3 chiều trinh sát mục tiêu trên không và trên biển Pozitiv-ME1 tầm trinh sát tối đa 150km trong điều kiện biển động cấp 3; có thể phát hiện mục tiêu bay có diện tích phản xạ radar 1m2 bay ở độ cao 1000m từ khoảng cách 110km; có thể phát hiện mục tiêu là tên lửa đối hạm có diện tích phản xạ radar 0,03m2 bay ở độ cao 15m từ khoảng cách 15km. Có thể bám cùng lúc 3-5 mục tiêu. Có thể phát hiện mục tiêu là tàu nổi có diện tích 10,000m2 từ ngoài đường chân trời.

ĐIỂM DANH VŨ KHÍ SIÊU HIỆN ĐẠI CỦA QUÂN ĐỘI VIỆT NAM

Theo VnExpress

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ