Nhà trường phải tự chịu trách nhiệm, nhất là đối với sinh viên - sản phẩm do nhà trường đào tạo… Đó là những chia sẻ của GS Võ Tòng Xuân với Báo Giáo dục và Thời đại về vấn đề tự chủ đại học.
Cơ hội nâng cao chất lượng
Theo GS Võ Tòng Xuân, tự chủ đại học là xu thế phát triển được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Tự chủ giúp trường đại học tháo gỡ nhiều vướng mắc về quản lý Nhà nước, Bộ chủ quản, hoạt động của nhà trường. Thời gian qua có một số trường tiến hành tự chủ, kết quả ban đầu được đánh giá khá tốt. Luật Giáo dục đại học cũng quan tâm đến vấn đề tự chủ của cơ sở giáo dục đại học. Quyền tự chủ đại học được thể hiện ở nhiều điều khoản của luật như Hội đồng trường, Hội đồng quản trị, hiệu trưởng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục, tuyển sinh, chương trình giáo dục, văn bằng, học phí, lệ phí tuyển sinh…
Thực tế, cơ sở giáo dục đại học thí điểm tự chủ đã chủ động, linh hoạt hơn về tổ chức bộ máy, tuyển dụng nhân sự và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Cụ thể, khi thí điểm tự chủ, nhà trường tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học; được quyết định mở, ngưng mở ngành đào tạo theo nhu cầu xã hội nếu đáp ứng đủ điều kiện theo quy định; mở chương trình đào tạo các trình độ giáo dục nghề nghiệp theo nhiệm vụ chính trị được giao…
Tự chủ đại học còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của mỗi cá nhân trong nhà trường, khơi dậy sức sáng tạo của từng thành viên. Nhà trường phải được tự quản về hoạt động tổ chức và tự chủ tài chính, nguồn thu - chi. Nguồn thu học phí chỉ là một phần, ngoài ra còn thu từ hoạt động khoa học công nghệ, sản xuất kinh doanh kết hợp với doanh nghiệp, thu từ nguồn tài trợ của doanh nghiệp, cộng đồng…
Tuy nhiên, tự chủ đại học vẫn còn tồn tại, vướng mắc còn nằm từ phía cơ quan quản lý Nhà nước; từ chính các trường đại học vẫn muốn tiếp tục cơ chế bao cấp và một phần từ người học và xã hội. Tuy Nhà nước và Bộ GD&ĐT đã chú trọng vấn đề tự chủ và tạo ra hành lang pháp lý cho quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học, nhưng quyền tự chủ đó vẫn chưa thật sự phát huy hết tác dụng. Trong quá trình đổi mới, các trường sẽ gặp không ít khó khăn, phải giải quyết những vấn đề còn tồn tại theo hướng vướng ở đâu, gỡ ở đó trong khi nhiều văn bản pháp luật cần thời gian để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện.
Nhất là việc thực hiện các cơ chế giao nhiệm vụ, đặt hàng còn rất chậm. Hầu hết trường đại học tự chủ bị cắt giảm ngân sách Nhà nước nên dù vẫn duy trì được hoạt động, thậm chí tốt hơn nhưng chưa đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, nhất là nghiên cứu khoa học… Nhiều người hiểu tự chủ đại học là không còn ngân sách Nhà nước đầu tư mà trường phải tự túc về kinh phí, đó là quan điểm sai lầm. Tự chủ đại học ở nước ta hiện vẫn theo hướng ngân sách Nhà nước tiếp tục đầu tư nghiên cứu khoa học trong đại học, nhất là đối với những trường trọng điểm.
Thực tế ở nhiều nước trên thế giới như Đức, Pháp, kinh phí Nhà nước vẫn hỗ trợ 70 - 80% thậm chí 90% cho hoạt động này. Mục đích của tự chủ đại học là làm sao phát huy được sự sáng tạo, tăng cường năng lực đào tạo, nghiên cứu khoa học. Các trường được tự chủ về học thuật, tổ chức bộ máy, tài chính, tăng khả năng huy động các nguồn tài chính.
Tự chủ để "sống" và "khẳng định"
Theo GS Võ Tòng Xuân, tự chủ đại học không phải Nhà nước "dứt sữa" (kinh phí) nhà trường hoàn toàn mà vẫn quản lý ở phạm vi nhất định. Ví dụ, phần chi ngân sách của Nhà nước tiếp tục cấp qua các đơn đặt hàng đào tạo đối với ngành nghề xã hội cần. Còn cơ chế quản lý tài sản đã có Hội đồng trường gắn với trách nhiệm công khai, minh bạch.
"Trường ĐH phải năng động hơn, từ chương trình đào tạo tới nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Thực tế, chương trình của nhiều trường đại học trên thế giới ít hơn ta rất nhiều, thời gian học của sinh viên được rút ngắn lại, thay vào đó là thời gian tự học, nghiên cứu và trải nghiệm thực tế. Ông thầy đại học không chỉ "ôm" giáo trình để dạy mà phải ra xã hội xem họ cần gì, để cập nhật kiến thức, bổ sung vào quá trình giảng dạy", GS Võ Tòng Xuân nhấn mạnh và dẫn chứng: Ở Mỹ, đa số các trường đại học lớn, đại học danh tiếng là đại học ngoài công lập.
Họ tự chủ về mọi mặt, tạo dựng thương hiệu từ chương trình đào tạo cho tới công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ. Nhà trường, giảng viên cùng sinh viên không chỉ dạy, học, nghiên cứu mà còn tham gia các dự án, nghiên cứu của doanh nghiệp và tổ chức. Làm việc này, họ vừa có nguồn tài chính để phục vụ phát triển trường, vừa có kinh nghiệm thực tế và bổ sung vào giáo trình, cập nhật những kiến thức mới nhất…
Có như vậy, nhà trường - xã hội luôn tương tác với nhau trong quá trình đào tạo - sử dụng lao động. Lợi ích ở chỗ nhà trường luôn có chương trình mới, đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, nghiên cứu khoa học chuyển giao công nghệ phát triển tốt. Còn xã hội có nguồn lao động vững tay nghề, đáp ứng nhu cầu phát triển.
"Vấn đề tiếp theo là chất lượng đào tạo, chúng ta cần "siết" đầu ra sinh viên, tránh trường hợp giao quyền tự chủ, các trường tuyển sinh ồ ạt rồi đào tạo không bảo đảm chất lượng trong khi đầu ra lại "mở". Một trong những sứ mệnh quan trọng của trường đại học là sáng tạo tri thức mới, có quyền tự do về học thuật, mở rộng quyền tự chủ đến từng bộ môn, từng giảng viên… nhưng đầu ra của sản phẩm đào tạo cũng cần được quản lý, kiểm định", GS Võ Tòng Xuân nhấn mạnh.
Nếu nhà trường tự chủ không chú trọng công tác đào tạo, sinh viên ra trường không có việc làm, đào tạo không đáp ứng nhu cầu xã hội tự khắc xã hội sẽ đào thải. Đây cũng là ưu điểm đáng kể của tự chủ đại học; người hưởng lợi chính là sinh viên và xã hội, nhất là đối tượng sử dụng lao động. - GS Võ Tòng Xuân