Ông Trần Duy Hải khẳng định: Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải ra 12 hải lý, đồng thời chỉ thị cho các cơ quan của Việt Nam tôn trọng giới hạn 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.
Việc công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng phù hợp với thực tế lúc đó hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến 17, thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa và được Pháp chuyển giao trên thực tế vào năm 1956, phù hợp với Hiệp định Genève năm 1954 mà Trung Quốc là một bên tham gia.
Ông Trần Duy Hải nhấn mạnh: “Bạn không thể cho người khác cái mà bạn chưa có được. Công thư không có giá trị công nhận chủ quyền đối với Tây Sa, Nam Sa theo cách gọi của Trung Quốc”.
Trong vấn đề này, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia nói thêm: “Việc gần đây Trung Quốc luôn nói Hoàng Sa không có tranh chấp là đi ngược lại chính quan điểm của lãnh đạo cấp cao Trung Quốc.
Ngày 24/9/1975, trong trao đổi với Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã thừa nhận giữa hai nước có tranh chấp về hai quần đảo và hai bên “có thể bàn bạc với nhau”.
“Xâm lược không thể sinh ra chủ quyền”
Ý kiến của Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình cũng được ghi lại trong Bị vong lục của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ngày 12/5/1988, đăng trên Nhân dân Nhật báo.
Ngay trong chính Bị vong lục này, Trung Quốc cũng khẳng định một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, là “xâm lược không thể sinh ra chủ quyền” đối với một vùng lãnh thổ.
“Không có quốc gia nào trên thế giới công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và việc Trung Quốc nói Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý” - Ông Hải khẳng định.
Năm 1974, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều đã lên tiếng phản đối hành động đó của Trung Quốc và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Từ góc độ quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của một quốc gia có chủ quyền là hành vi phi pháp và không thể đem lại chủ quyền cho Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa. Hiến chương Liên Hiệp Quốc, luật pháp quốc tế quy định cấm sử dụng vũ lực xâm phạm lãnh thổ của một quốc gia khác.
Tại cuộc họp báo, sau khi bác bỏ các thông tin xuyên tạc, bóp méo sự thật của phía Trung Quốc, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia đã cho công chiếu đoạn phim song ngữ Anh - Việt về những chứng cứ, bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
PVN hoạt động dầu khí hoàn toàn phù hợp với Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982
Về cáo buộc của Trung Quốc rằng “Việt Nam đã phân lô 57 lô dầu khí, trong số đó có bảy mỏ đã đi vào sản xuất và 37 giàn khoan tại các vùng biển có tranh chấp”, ông Đỗ Văn Hậu - Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam khẳng định:
“Mọi hoạt động dầu khí của Việt Nam đều được thực hiện hoàn toàn trên thềm lục địa của Việt Nam được xác định phù hợp với các quy định của Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982”.
Giới thiệu cụ thể các khu vực khai thác của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) trên bản đồ tại buổi họp báo, ông Đỗ Văn Hậu cho biết:
“PVN được Nhà nước Việt Nam giao cho quản lý toàn bộ dầu khí trên lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. Từ năm 1986, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước quốc tế về Luật Biển 1982, việc thăm dò và khai thác dầu khí chỉ thực hiện trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam”.
“Đến nay, có 86 hợp đồng dầu khí đang có hiệu lực. Chúng tôi đã khảo sát và khoan hơn 900 giếng dầu khí, và có hơn 30 mỏ đang được khai thác” - Ông Hậu cho biết.
Ông Hậu khẳng định, PVN không có bất cứ lô dầu khí nào nằm ngoài vùng 200 hải lý của thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được quốc tế công nhận.
Ông Hậu cho biết thêm: “Các hoạt động dầu khí ở miền trung, nơi Trung Quốc qua công ty CNOOC gọi thầu, chúng tôi vẫn tiến hành khảo sát. Và khẳng định rằng, đến nay không có công ty quốc tế nào ký với Trung Quốc thầu chín lô kể trên.
Hoạt động dầu khí của PVN đang triển khai bình thường, phù hợp với Luật Biển 1982 và không có bất kỳ sự phản đối, cản trở nào từ các đối tác nước ngoài và cộng đồng quốc tế”.
Do đó, “quan điểm trên của Trung Quốc thực chất là nhằm biến khu vực không có tranh chấp thành khu vực tranh chấp. Ý đồ của Trung Quốc là nhằm hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” bị cả cộng đồng quốc tế lên án.
Việt Nam kiên quyết bác bỏ quan điểm sai trai này và khẳng định quyết tâm bảo vệ các quyền lợi chính đáng của mình bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế” - Ông Hậu nhấn mạnh.
Trung Quốc vẫn tiếp tục tấn công tàu chấp pháp của Việt Nam
Về cáo buộc của Trung Quốc rằng, Việt Nam sử dụng tàu chiến để cản trở Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương – 981 (Haiyang Shiyou-981), người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình kiên quyết:
“Việt Nam nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút ngay giàn khoan Haiyang Shiyou-981 cùng các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của Việt Nam, chấm dứt các hoạt động gây ảnh hưởng đến an toàn, an ninh hàng hải cũng như hòa bình và ổn định ở khu vực.
Tuy nhiên, phía Trung Quốc không những không đáp ứng mà gần đây lại còn đưa ra nhiều thông tin sai lệnh về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển của Việt Nam”.
Ông Ngô Ngọc Thu - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn cáo buộc, bóp méo sự thật của Trung Quốc.
Ông Thu thông báo: Từ ngày 7/5 đến nay, Trung Quốc thường xuyên duy trì từ 74 đến 137 tàu các loại. Cao điểm nhất là ngày 20/5, Trung Quốc đã điều 137 tàu các loại, gồm 4 tàu chiến là HNTL 534, TL tấn công nhanh 755, Tuần tiễu chống ngầm 786, 789; 42 tàu chấp pháp; 32 tàu phục vụ; 59 tàu cá.
Trung Quốc thường xuyên sử dụng các nhóm tàu từ ba đến năm chiếc bám sát các tàu chấp pháp của Việt Nam, có hành động chặn đầu, khóa đuôi, ép mạn sẵn sàng đâm va khi các tàu của Việt Nam vào gần tuyên truyền, ngăn chặn việc xâm phạm trái phép của giàn khoan Hải Dương-981.
Các tàu của Trung Quốc còn chủ động đâm thẳng vào tàu Việt Nam, dùng súng bắn nước công suất lớn, hệ thống âm thanh âm tần, đèn pha công suất lớn nhằm làm hư hỏng tàu thuyền, gây thương tích cho chín thủy thủ trên tàu.
Trong khi đó, cho đến thời điểm hiện tại, Việt Nam chỉ sử dụng với số lượng hạn chế các tàu thực thi pháp luật của Cảnh sát Biển và Kiểm ngư.
Lực lượng Cảnh sát Biển, Kiểm ngư Việt Nam đã kiên trì, kiềm chế, chủ động tránh đâm va trước hành động khiêu khích của tàu Trung Quốc.
Các tàu của Việt Nam chỉ dùng biện pháp tuyên truyền để yêu cầu các tàu và giàn khoan của Trung Quốc rời khỏi vùng biển Việt Nam, không đâm va và không sử dụng các trang thiết bị trên tàu để đối phó với các tàu Trung Quốc.
“Phía Việt Nam xin khẳng định không tấn công, khiêu khích tàu Trung Quốc. Việt Nam hoàn toàn không có tàu chiến ở khu vực. Phóng viên Việt Nam và nước ngoài có mặt ở khu vực có thể khẳng định thông tin phía Trung Quốc đưa ra” - Ông Ngô Ngọc Thu nhấn mạnh.
Tại cuộc họp báo, trả lời câu hỏi về việc Trung Quốc sử dụng thông tin đưa công dân về nước để bóp méo sự thật về tình hình an ninh ở Việt Nam, người phát ngôn Lê Hải Bình nêu rõ:
“Những vụ việc gây rối vừa qua tại một số địa phương Việt Nam rất đáng tiếc. Các biện pháp của Chính phủ Việt Nam, đặc biệt sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng đã quyết liệt triển khai, tình hình trật tự, hoạt động sản xuất kinh doanh trở về bình thường, hầu hết doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đã khôi phục sản xuất.
Chính phủ sẽ thực hiện mọi biện pháp bảo đảm trật tự, bảo đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp, bảo đảm không để xảy ra sự cố đáng tiếc.
Các nước đã đánh giá cao phản ứng của Việt Nam. Theo chúng tôi được biết, ngoại trừ Trung Quốc, không có doanh nghiệp nước ngoài nào rút công dân về nước”.
Trả lời câu hỏi về bài báo trên hãng thông tấn RIA Novosti của Nga đã đưa nhiều thông tin sai lệch, không khách quan về quan hệ Việt - Trung, Người phát ngôn Lê Hải Bình nói rõ:
“Bài báo thể hiện ý kiến cá nhân hết sức sai trái, xuyên tạc lịch sử, tôi lấy làm tiếc là tờ báo cho đăng tải ý kiến như vậy. Theo làm việc của chúng tôi với Đại sứ quán Nga tại Hà Nội, đây chỉ là phản ánh ý kiến cá nhân của bài báo này”.
Ông Trần Duy Hải cho biết: "Theo quy định công ước quốc tế về Luật Biển 1982, mỗi quốc gia có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Khu vực giàn khoan Trung Quốc đặt là nằm sâu trong thềm lục địa Việt Nam 80 hải lý. Trong quần đảo Hoàng Sa, đảo Tri Tôn chỉ là một bãi ngầm. Theo công ước, đảo này không có vùng biển vượt quá 12 hải lý. Nên giàn khoan không thể trong vùng biển của đảo Hoàng Sa. Nên trong bất cứ khả năng nào, việc đặt giàn khoan của Trung Quốc đều không hợp pháp.
Vùng đảo Hoàng Sa, theo luật, không thể có vùng quản lý ngoài 12 hải lý, trong khi giàn khoan nằm ngoài phạm vi 18 hải lý. Hơn nữa, Hoàng Sa là của Việt Nam. Nên từ bất kỳ khía cạnh pháp lý nào, Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981 đều bất hợp pháp".