Quy mô tài sản lớn
Tại Tọa đàm “Chính sách thuế - tài sản số và trách nhiệm của doanh nghiệp”, nhiều ý kiến cho rằng, trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ 4, sự phát triển và bùng nổ của công nghệ số nói chung và công nghiệp công nghệ số nói riêng là xu hướng tất yếu toàn cầu.
Công nghiệp công nghệ số đang ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí là nền tảng và là hạ tầng thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác phát triển. Đồng thời, đóng vai trò dẫn dắt trong thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, quốc gia số.
Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Blockchain Việt Nam, ông Phan Đức Trung cho biết, có rất nhiều con số nói về tài sản số tại Việt Nam. Theo báo cáo của tổ chức Chainalysis chuyên về phân tích thị trường, năm 2022 dòng tài sản số hay tài sản mã hóa vào thị trường Việt Nam khoảng 100 tỷ USD.
Con số này tăng trưởng đến năm 2023 là 120 tỷ USD. Năm 2021 - 2022, Việt Nam luôn nằm trong top 3 trên toàn cầu về người dân sở hữu tài sản số (21% dân số Việt Nam sở hữu) chỉ sau UAE và Hoa Kỳ. Năm 2023 Việt Nam tụt 5 hạng, đứng thứ 7. Thái Lan và Singapore đã vươn lên đứng thứ 5 và 3.
“Tài sản số không chỉ là những con số mang tính chất quy mô về dòng tiền dịch chuyển về Việt Nam, mà còn có quy mô cạnh tranh khu vực. Rất nhiều quốc gia trong khu vực ban hành luật lệ, chính sách để thúc đẩy tạo ra hành lang pháp lý cho những dòng tài sản này đóng góp vào nền kinh tế mang giá trị tích cực, chứ không thể có cách nhìn tiêu cực là ảnh hưởng tới ổn định kinh tế từng quốc gia nói riêng”, ông Trung nói.
Liên quan đến Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số, ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI cho biết, đây là lần đầu tiên đưa ra khái niệm về tài sản số.
“Mặc dù tài sản số hay tiền ảo trên thực tiễn đã rất phát triển, nhưng về mặt pháp lý dường như chúng ta chưa theo kịp, chưa có một khung khổ pháp lý cho loại tài sản này. Vì thế, Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số lần đầu tiên tại Điều 8 có quy định về tài sản số”, ông Tuấn chia sẻ.
Theo Phó Tổng Thư ký, Trưởng ban Pháp chế VCCI, khi có khung khổ chính thức, hoạt động đầu tư kinh doanh theo lĩnh vực này mới có thể hình thành và phát triển.
“Chính vì chúng ta chưa có khung khổ pháp lý chính thức nên thời gian vừa qua, có những hoạt động đầu tư kinh doanh buộc phải rời bỏ Việt Nam. Ví dụ, Tập đoàn Sky Mavis là một tập đoàn kỳ lân công nghệ của Việt Nam có hệ sinh thái game, là doanh nghiệp thuần Việt Nam, nhưng do chúng ta chưa có khung khổ pháp lý cho tài sản trong game và hoạt động dựa trên cơ sở nội dung số, tài sản số rất lớn, nên cuối cùng họ chọn Singapore làm nơi đóng trụ sở”, ông Tuấn nhấn mạnh.
Theo đại diện VCCI, với sự phát triển khoa học công nghệ mạnh mẽ như hiện tại, Việt Nam cần phải là điểm đến của các nhà đầu tư công nghệ số. Cần nhanh chóng thúc đẩy xây dựng khung khổ pháp lý.
Khi có pháp lý, công nghiệp công nghệ số dần được hình thành, phát triển mạnh mẽ, quyền và lợi ích của những người tham gia trong lĩnh vực này được bảo vệ. Đã có rất nhiều giao dịch liên quan tới tài sản số, nếu chưa có khung khổ pháp lý thì giao dịch này trở nên rủi ro, mỏng manh, những người liên quan không được bảo vệ.
Hướng quản lý tài sản số
Theo Phó Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính) Trương Bá Tuấn, không có khung pháp lý liên quan đến tài sản số, nhưng các giao dịch về tài sản số vẫn diễn ra thông qua sàn giao dịch nước ngoài và cá nhân.
Vì vậy, cần thiết phải có khung pháp lý liên quan đến tài sản số. Cần xác định và làm rõ được định nghĩa tài sản số là gì, cũng như vị trí pháp lý của tài sản số và những đặc trưng, đặc tính của tài sản số.
Như vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan mới có các biện pháp, chính sách để hình thành khung pháp lý đồng bộ. Tài sản số có thể sử dụng với nhiều mục tiêu khác nhau. Để thừa nhận và quản lý nó như tài sản thì đòi hỏi không chỉ sự tham gia của Bộ Tài chính mà của rất nhiều bộ, ngành có liên quan.
Trường hợp Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số được Quốc hội thông qua, trong đó đưa ra được định nghĩa về tài sản số, các nội dung có liên quan, thì trong phạm vi và chức năng của mình, Bộ Tài chính sẽ triển khai thực hiện các vấn đề liên quan, bao gồm cả hoàn thiện chính sách về thuế.
“Trong trường hợp tài sản số được đưa vào Luật Công nghiệp công nghệ số, hay nói cách khác chúng ta thừa nhận tài sản số như một loại tài sản thì hoàn toàn có căn cứ để thực hiện thu thuế dựa trên pháp luật thuế của chúng ta. Tương tự chúng ta có Luật Thuế giá trị gia tăng để điều tiết, giao dịch các tài sản”, ông Trương Bá Tuấn cho biết.
Đồng quan điểm, Phó Tổng Thư ký VCCI, Đậu Anh Tuấn cho rằng, về nguyên tắc, các giao dịch liên quan đến tài sản số cũng như các hàng hóa khác phải nộp thuế. Nếu đây được coi là tài sản thì Nhà nước có thể thu thuế giao dịch, thuế thu nhập. Đây cũng là nhu cầu rất chính đáng từ thực tiễn.
Tuy nhiên, cái khó không chỉ ở Việt Nam mà các nước đang phải đối mặt là phải định nghĩa nó là gì? Đại diện VCCI chia sẻ, các nước có các cách tiếp cận rất đa dạng, khác nhau. Có nước xem như một loại chứng khoán, có nước xem là một loại tài sản đặc biệt, tài sản hỗn hợp.
Chia sẻ bên cạnh những thuận lợi về chính sách mà Chính phủ đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp, còn nhiều khó khăn, đặc biệt trong lĩnh vực tài sản số, CEO Công ty AlphaTrue, Trần Huyền Dinh cho biết, rất nhiều trường hợp để doanh nghiệp phát triển dễ dàng hơn họ buộc phải qua các địa bàn lân cận như Singapore, Hồng Kông (Trung Quốc). Điều này không chỉ tạo ra thách thức cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ pháp luật, mà còn gây khó khăn trong việc thu hút vốn, đặc biệt vốn đầu tư nước ngoài.