Giảm đau, làm vết thương nhanh lành
GS Bùi Công Hiển, Hội Côn trùng học Việt Nam cho biết, có nhiều nghiên cứu về công dụng tuyệt vời của nọc ong trong y học điều trị bệnh tật, làm đẹp. Tác dụng chữa bệnh của nọc ong cũng được y học biết đến và áp dụng từ rất lâu.
Nọc ong có khả năng làm giảm đau và lành vết thương nhanh chóng. Đến thế kỷ 18, 19, nhiều thầy thuốc châu Âu đã công bố những kết quả đáng phấn khởi trong việc dùng nọc ong chữa các bệnh thấp tim, thấp khớp.
Gần đây, người ta đã dùng nọc ong chữa khỏi nhiều bệnh như thấp khớp, viêm dây thần kinh, huyết áp cao, viêm đa khớp, hen, suy nhược thần kinh, đau cột sống, viêm mống mắt... Nọc ong cũng có khả năng gây ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư, HIV.
Các nhà khoa học đặc biệt nhấn mạnh, nọc ong có giá trị như một nội tiết tố kiểu cortison. Nó có khả năng chống viêm, giảm tính thẩm thấu thành mạch, tăng sức đề kháng. Nhưng nó lại tốt hơn cortison vì với liều lượng quy định hầu như không gây tai biến.
Giống như glucocorticoid và aspirin, nọc ong kháng lại các ung thư buồng trứng, gan, tuyến tiền liệt, bàng quang, khối u ác tính (melanoma), ung thư tế bào thận… Làm tăng sự tuần hoàn máu ở động mạch vành và ngoại biên, cải thiện các vòng tuần hoàn nhỏ trong các mô. Giảm nhịp tim ở một liều thấp, làm giảm huyết áp.
GS Bùi Công Hiển cho biết, nọc ong có thành phần hóa học vô cùng phức tạp. Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa phân tích được đầy đủ các chất bên trong loại nọc độc này.
Người ta thường biết đến nọc ong với các thành phần chính là axit fomic, peptide, albumin và melittin. Nọc ong có tỷ trọng 1.131, pH 5.5 trong nước, phản ứng axit. Trong nọc ong có lưu huỳnh, tryptophan, cholin, octophotphoric có histamin, axit clohydric và axit formic.
Thành phần chính của nọc ong là các axit amin tự do. Đó là isoleuxin, leuxin, treonin, axit glutamic, melittin, alanin, glycocol, acginin, lysin, xystin. Ngoài ra, nọc ong còn có albumin, chất mỡ, ortophotphoric, các axit muravic, các axit nucleic, hợp chất hữu cơ, chất vô cơ magie đồng.
Khoảng 50% nọc độc ong chứa axit amin có tác dụng kháng khuẩn, chống virus, ung thư. Bên cạnh đó, thành phần các peptide apamin và adolapin có đặc tính giảm đau, chống viêm hiệu quả. Nọc ong có tính chất kháng sinh mạnh, giảm hoạt tính dưới tác dụng của các chất oxy hóa và kali – permanganat.
Làm đẹp, chữa ung thư
GS Bùi Công Hiển cho biết, nọc ong được dùng có hiệu quả trong nhiều bệnh, những bệnh nặng và kéo dài, tăng cường chức năng miễn dịch. Khả năng chống viêm của nọc ong mang lại lợi ích tuyệt vời cho người bị viêm khớp dạng thấp.
Việc châm cứu nọc ong mang lại tác dụng như thuốc Celecoxib và Methotrexate điều trị viêm khớp truyền thống. Đặc biệt, khi kết hợp nọc ong để trị liệu cùng với thuốc cho hiệu quả giảm đau, sưng khớp vô cùng cao.
Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy, nọc ong có lợi trong việc giảm thiểu những triệu chứng bệnh liên quan đến các vấn đề về thần kinh. Đặc biệt, loại nọc độc này mang đến lợi ích tuyệt vời đối với người bị bệnh Parkinson.
Nọc ong có tác dụng giảm viêm, tăng cường chức năng hệ thống miễn dịch giúp giảm triệu chứng của tình trạng tự miễn dịch. Ví dụ như viêm khớp, viêm não, lupus. Loại nọc này có lợi cho tế bào miễn dịch, giúp điều trị dị ứng, hen suyễn.
Xu hướng làm đẹp từ nọc ong đang ngày càng phổ biến với hiệu quả chăm sóc da tuyệt vời. Loại nọc độc kỳ diệu này được đưa vào serum và kem dưỡng ẩm giúp cải thiện sức khỏe làm da. Nọc ong có tính kháng khuẩn, giảm viêm mạnh mẽ giúp cải thiện tình trạng mụn trứng cá.
Đặc biệt, loại nọc độc này còn kích thích sản xuất elastin, collagen tự nhiên và tăng cường mô giúp giảm nếp nhăn, tạo vẻ trẻ trung, săn chắc cho da.
Trên thế giới, nhiều công trình nghiên cứu về tác dụng của nọc ong chữa bệnh ung thư đã được công bố. Các nhà khoa học tại Viện Nghiên cứu Y khoa Hary Perkins ở Tây Australia và được công bố trên tạp chí Nature Precision Oncology. Nọc độc của ong - trong đó có một loại hợp chất có tên melittin - được sử dụng để chống lại ung thư vú.
Hiện nay, nhiều công trình nghiên cứu về chữa bệnh ung thư bằng nọc ong đã được cong bố, nhưng những chưa có những chế phẩm nọc ong thương mại để chữa bệnh ung thư được sử dụng rộng rãi.
Đắt như vàng
Để lấy nọc ong, người ta đặt một bảng phiến nhôm vào giữa khe của 2 cầu ong và cho dòng điện rất yếu chạy qua để kích thích các con ong thợ đốt tiết ra nọc ong.
Dưới đáy thùng ong đặt một tấm kính trongnhằm gây kích ứng ong và theo phản xạ ong sẽ tấn công lại để bảo vệ tổ của mình bằng cách và đốt nhẹ lên mặt tấm kính và tiết ra một lượng nhỏ nọc.
Khi mỗi con ong tiết ra nọc, nó cũng tiết ra pheromone là tín hiệu kích thích các con ong khác cùng đốt trên tấm kính. Nọc độc dính vào tấm kính. Sau đó tấm kính được lấy ra khỏi tổ ong và nọc độc thô trên tấm kính được thu gom lại để làm tinh khiết hơn.
Nọc ong thô được tinh chế đơn giản bằng cách hòa tan trong nước cất, lọc bỏ cặn bẩn không tan, sau đó đem đông cô ở -20 độ C sẽ thu được nọc ong tinh sạch. Phương pháp thu nọc ong này không làm chết ong, dễ dàng loại bỏ các tạp chất và dễ dàng thu được sản phẩm rất quý giá trong đàn ong.
GS Bùi Công Hiển cho biết, ở một số nước nuôi ong trên thế giới đã tiến hành khai thác nọc ong, giá bán 1 kg nọc ong còn đắt hơn 1 kg vàng. Tuy nhiên, những người nuôi ong ở Việt Nam chưa khai thác được nọc ong thương phẩm nên chưa biết được giá nọc ong như thế nào.
Dù có nhiều tác dụng song nọc ong không dùng được đối với bệnh lao, bệnh gan và tuyến tụy tạng, bệnh nhân kèm đái ra máu, bệnh tuyến thượng thận, suy nhược toàn thân, bệnh máu và các tổ chức tạo máu với khuynh hướng làm chảy máu. Phụ nữ có thai không điều trị bằng nọc ong.