Những năm gần đây, huyện đảo Lý Sơn phải đối mặt với tình trạng thiếu nước ngọt nghiêm trọng. Chưa có năm nào Lý Sơn khô hạn như năm nay, hàng ngàn giếng nước trên đảo cạn kiệt. Nhà nhà phải chật vật đi tìm nước ngọt để sinh hoạt trong gia đình.
Nguyên nhân chính khiến nguồn nước ngầm sụt giảm mạnh là do số lượng giếng nước phục vụ sản xuất nông nghiệp trên đảo tăng quá nhanh. Theo thống kê, năm 2014, đảo Lý Sơn chỉ có 550 giếng nước thì nay đã tăng lên 1.300 giếng, trong đó có 913 giếng khoan và 414 giếng đào.
Trước thực trạng trên, từ tháng 9/2018 đến tháng 5/2019, Sở TN&MT tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Liên đoàn Quy hoạch và điều tra tài nguyên nước miền Trung thực hiện dự án khoan giếng, lắp đặt thiết bị phục vụ quan trắc, kiểm soát trữ lượng, chất lượng nước dưới đất trên địa bàn huyện Lý Sơn.
Kết quả điều tra cho thấy, nước dưới đất trong tầng chứa nước bazan trên đảo đã và đang có xu hướng tăng diện tích bị xâm nhập mặn. Nguồn nước mặn đã lan đến trung tâm của đảo. Tầng chứa nước khe nứt đã bị nhiễm mặn đến trung tâm đảo Lớn. Xâm nhập mặn không những xảy ra theo phương ngang mà còn xuất hiện theo chiều từ dưới lên.
Theo ông Nguyễn Biện Như Sơn - Phó trưởng Phòng Tài nguyên nước (Sở TN - MT tỉnh Quảng Ngãi), hơn 10 năm trước, ở vùng trung tâm đảo nhiễm mặn ở độ sâu 40 - 45 m thì nay chiều sâu gặp nước nhiễm mặn chỉ từ 30 - 35m. Trong 5 năm (2012 - 2017), túi nước ngọt trên đảo tụt 5 m, thì từ 2017 đến nay túi nước tụt gần bằng 5 năm trước. Ranh giới nhiễm mặn lấn sâu vào đảo lớn khoảng 2,61 km2. Đối với đảo Bé, tầng chứa nước khe nứt bị nhiễm mặn toàn bộ.
“Nguyên nhân của hiện tượng này trước tiên là do khai thác nước dưới đất quá mức, thiếu kiểm soát, dẫn đến mực nước ngầm hạ thấp, tạo điều kiện cho nước biển xâm nhập sâu vào đất liền”, ông Sơn cho biết.
Ngoài nhiễm mặn, nguồn nước còn bị nhiễm hàm lượng các chất có trong phân bón (nitrat và vi sinh) ở nhiều nơi. Phân tích mẫu nước trên đảo có hàm lượng nitrat và vi sinh đều vượt chuẩn cho phép, nhất là hàm lượng nitrat vượt giá trị giới hạn cho phép từ 1,4 đến 12,6 lần.
Theo ông Sơn, hiện có nhiều phương án được đưa ra để cung cấp nguồn nước ngọt cho đảo Lý Sơn vào mùa nắng. Trong đó, 2 giải pháp đang được xem xét là đầu tư máy lọc nước biển thành nước ngọt hoặc đưa nước ngọt theo đường ống cấp nước từ đất liền ra đảo.
Tuy nhiên cả 2 đề xuất này đều khó khả thi. Bởi lẽ, đầu tư máy lọc nước biển thành nước ngọt thực tế không phát huy hiệu quả lâu dài vì môi trường nước mặn, máy móc nhanh hư hỏng. Còn đưa nước ngọt theo đường ống cấp nước từ đất liền ra đảo thì vốn đầu tư quá lớn.
Ông Sơn cho rằng, cách tối ưu là bổ cập, bảo quản, bảo vệ túi nước ngầm trên đảo. Nguồn nước ở đảo Lý Sơn lâu nay được tích lũy từ nước mưa và hồ chứa trên đỉnh núi lửa Thới Lới. Tuy nhiên, tốc độ bê tông hóa trên đảo quá nhanh làm phần lớn lượng nước mưa chảy ra biển.
Do đó, cần có giải pháp làm cho lượng nước mưa trên đảo không thoát ra biển mà nằm lại, ngấm vào lòng đất, giảm lượng nước nhiễm mặn, giúp túi nước ngầm tăng lên.
“Sở đang đề xuất phương án bổ cập nước ngầm, giảm lượng mặn, nâng tầng chứa nước ngầm theo cách “ép” nước xuống đất từ các lỗ khoan. Chi phí thực hiện không lớn, nếu cách làm này thành công thì sẽ tiết kiệm kinh phí vô cùng lớn so với các phương án khác. Về lâu dài sẽ giải quyết được bài toán thiếu nước ngọt cho đảo Lý Sơn”, ông Sơn chia sẻ.