LTS: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài…”[1] đã thể hiện tầm nhìn tư duy về nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để xây dựng đất nước trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 diễn ra mạnh mẽ.
Bài viết phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam thời gian qua, đồng thời, kiến nghị một số giải pháp góp phần phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh thế giới biến đổi.
Báo GD&TĐ trân trọng gửi tới quý độc giả bài viết "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh thế giới biến đổi".
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm nhiệm vụ trọng dụng, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài để đấu tranh giải phóng dân tộc và dựng xây dựng Tổ quốc.
Người khẳng định: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”[2]. Đó là việc làm rất cần kíp và thiết thực để giữ vững nền độc lập cũng như phát triển đất nước.
Thấm nhuần quan điểm của Người, Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập đã đưa ra tầm nhìn về chiến lược nhằm kiến tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cuộc kháng chiến cứu nước, đồng thời phục vụ công cuộc kiến thiết nước nhà sau độc lập.
Khi đất nước hoàn toàn thống nhất, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội được khẳng định Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước”[3].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ...gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài…” đã thể hiện tầm nhìn tư duy về nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để xây dựng đất nước trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 diễn ra mạnh mẽ.
Việc phân tích rõ những thuận lợi, thách thức đặt ra đối với nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh thế giới biển đổi hiện nay là vô cùng quan trọng, góp phần xây dựng và phát triển đất nước bền vững.
Bài viết sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, liên ngành để tiếp cận nghiên cứu, trong đó chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng hợp; thống kê, so sánh để khai thác, phân tích, tổng hợp các tư liệu, số liệu từ báo cáo chỉ số phát triển con người của Việt Nam, báo cáo phát triển con người toàn cầu của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và các nguồn số liệu thống kê, tài liệu thứ cấp và các bài viết nghiên cứu có liên quan để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Đảng ta lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ này với quan điểm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua con đường phát triển giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ chính là khâu then chốt để nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta cũng khẳng định trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kĩ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu hút các nhà khoa học công nghệ giỏi trong nước và ngoài nước, trong cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh đến nhiệm vụ phải tập trung phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao trong đó nhấn mạnh việc phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, đảm bảo kinh tế - xã hội phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững.
Đại hội XI (năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”[4].
Quan điểm này đánh dấu bước phát triển trong nhận thức về vai trò của nhân tố con người trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững, coi phát triển nguồn nhân chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá của chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao giai đoạn 2011–2020 của Chính phủ đã phê duyệt đề án này, với mục tiêu tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng và trình độ cao trong các lĩnh vực quan trọng như công nghệ thông tin, năng lượng, môi trường, và công nghệ sinh học.
Chương trình cũng đặt mục tiêu cải thiện kỹ năng ngoại ngữ và kỹ năng làm việc theo tiêu chuẩn quốc tế cho người lao động. Nghị quyết số 29-NQ/TW về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã góp phần thúc đẩy chất lượng giáo dục và đào tạo toàn diện, từ chương trình học, phương pháp giảng dạy đến cơ cấu tổ chức giáo dục. Đặc biệt, nghị quyết nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao năng lực của giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao với quan điểm:“Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”[5].
Đồng thời, Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất - kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”[6].
Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xác định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”[7].
Đại hội cũng đặt ra yêu cầu phải “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”[8]
Những chủ trương của Đảng đưa ra là hết sức đúng đắn, thể hiện tư duy, tầm nhìn mới về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời kỳ mới.
Cho đến nay, những chủ trương và chính sách về thu hút, trọng dụng nhân tài, các ngành và địa phương chủ động cụ thể hóa vào hoàn cảnh, điều kiện của địa bàn như Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 6/8/2008, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị định số 140/2017/NĐ-CP, ngày 5/12/2017, của Chính phủ, “Về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ”; Luật số 52/2019/QH14, ngày 25/11/2019, của Quốc hội, về “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức”; Quyết định số 899/QĐ-TTg, ngày 31/7/2023, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; Nghị quyết số 45-NQ/TW, ngày 24/11/2023, của Hội nghị Trung ương tám khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới”; Quy định số 142-QĐ/TW, ngày 23/4/2024, Bộ Chính trị , về “Quy định thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong công tác cán bộ, cho phép người đứng đầu giới thiệu nhân sự bầu cử, bổ nhiệm làm cấp phó”; Quy định số 144-QĐ/TW, của Bộ Chính trị, ngày 9/5/2024, về “Quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”,...
Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại nước ta hiện nay
Những kết quả đạt được
Từ những chủ trương trên, đến nay, nguồn nhân lực của Việt Nam đã có những bước chuyển mạnh mẽ. So với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào.
Theo Báo cáo về tình hình dân số, lao động việc làm quý IV và năm 2023 của Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2023 đạt 52,4 triệu người, tăng 666,5 nghìn người so với năm trước.
Trong đó, lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 19,5 triệu người, chiếm 37,3%; khu vực nông thôn là 32, 9 triệu người, chiếm 62,7%; lực lượng lao động nữ đạt 24,5 triệu người, chiếm 46,7%, lực lượng lao động nam đạt 27,9 triệu người, chiếm 53,3%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động năm 2023 là 68,9%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với năm 2022. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam giới là 75,2%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước, trong khi đó con số này của nữ giới là 62,9%, tăng 0,4 điểm phần trăm so với năm trước.[9]

Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, thực hiện Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2025; Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 1/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 19/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019 – 2030…
Thông qua đào tạo, bồi dưỡng giúp người lao động từng bước nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, khả năng tự giác, tự tiến hành công việc độc lập đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Bởi vậy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chính là sự đóng góp của mỗi người ở các ngành, lĩnh vực khác nhau, dưới tác động của cơ chế, chính sách đã, đang và sẽ được khơi dậy tiềm năng, thế mạnh một cách hiệu quả nhất.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69 trong 10 năm 2010 - 2020. Đây là chỉ số cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập.
Bên cạnh đó, chỉ số phát triển con người của Việt Nam những năm qua đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Theo Báo cáo chỉ số phát triển con người Việt Nam giai đoạn 2016-2020 của Tổng cục Thống kê, chỉ số tổng hợp HDI của Việt Nam đã tăng từ 0,682 năm 2016 lên 0,687 năm 2017; 0,693 năm 2018; 0,703 năm 2019 và 0,706 năm 2020. So với năm trước, HDI năm 2017 tăng 0,005 với tốc độ tăng 0,73%; 2018 tăng 0,006 và tăng 0,87%; 2019 tăng 0,10 và tăng 1,44%; 2020 tăng 0,003 và tăng 0,43%. Tính chung những năm 2016-2020 tăng 0,024 với tốc độ tăng 3,52%; bình quân mỗi năm tăng 0,87%.
Báo cáo Phát triển con người (HDR) toàn Cầu 2021/2022 được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam công bố tháng 9/2022 cho biết, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2021 là 0,703, tăng hai bậc trong Bảng xếp hạng toàn cầu, từ 117/189 quốc gia vào năm 202 lên 115/191 quốc gia trong năm 2021. HDI của Việt Nam năm 2021 xếp thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á. Trình độ học vấn của nhân lực Việt Nam liên tục được cải thiện qua từng năm. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo tăng từ 15,4% vào năm 2011 lên 24,1% vào năm 2021.
Bên cạnh nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực Việt Nam cũng không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ dân số có chuyên môn kỹ thuật đã tăng lên đáng kể qua các năm, từ 17,7% (năm 2007) lên 24% (quý II/2020). Tỷ lệ dân số có trình độ đại học trở lên tăng từ 4,9% (năm 2007) Lên 11,1% (quý II/2020).
Theo Báo cáo “Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023 của Tổng cục Thống kê”, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý IV năm 2023 là 27,6%, tăng 0,3 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 1,2 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2023, cả nước vẫn còn 38,0 triệu lao động chưa qua đào tạo. Con số này cho thấy thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Do đó, việc xây dựng các chính sách và chương trình đào tạo cụ thể là yêu cầu rất cấp thiết trong thời gian tới. Tính chung năm 2023, lực lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ ước tính là 14,1 triệu người, chiếm 27,0%, tăng 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022 [10].
Những con số trên đã chứng minh nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện những chỉ tiêu, nội dung về phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Có thể thấy, nguồn nhân lực chính là sự đóng góp của mỗi người ở những lĩnh vực, ngành hoạt động khác nhau, dưới tác động của những cơ chế, chính sách, nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao đã, đang và sẽ được đánh thức, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh đang bị ngủ quên, hoặc chưa được sử dụng đúng lúc, đúng nơi một cách hiệu quả, hợp lý nhất.
Thách thức đặt ra
Bên cạnh những điểm tích cực nêu trên, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam nhìn chung còn thấp, mặt khác, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay đã bộc lộ một số hạn chế, chưa đáp ứng với đòi hỏi thị trường lao động và quá trình hội nhập sâu rộng hiện nay:
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển đất nước song ở một số địa phương việc nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh tế - xã hội còn chưa cao. Một số chủ trương, quyết định đầu tư các dự án, công trình, chủ doanh nghiệp chỉ quan tâm đến đất đai, vốn, công nghệ mà ít quan tâm đến nhân lực lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa cao. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đạt mức 3,79 điểm (trong thang điểm 10) xếp hạng thứ 11/12 quốc gia được khảo sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm.
Trong khi đó, chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo nhìn chung chưa cao; trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu và theo kịp xu hướng thời đại 4.0 hiện nay; năng lực xã hội, khả năng thích ứng với công việc còn hạn chế.
Chẳng hạn, như nhân lực ngành công nghệ thông tin, có 72% số sinh viên ngành công nghệ thông tin không có kinh nghiệm thực hành, 42% số sinh viên thiếu kỹ năng làm việc nhóm [11].
Chất lượng giáo dục đại học còn thấp và không đáp ứng nhu cầu kỹ năng của thị trường lao động [12]. Cơ cấu đào tạo và giáo dục (ĐT&GD) nghề nghiệp còn bất cập, chủ yếu vẫn là trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng (chiếm 75%), trình độ trung cấp, cao đẳng chỉ chiếm khoảng 25%.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2023, lực lượng lao động của Việt Nam đạt hơn 52,6 triệu người, trong đó tỷ lệ lao động có trình độ đại học và trên đại học chiếm khoảng 10%.
Tuy nhiên, báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) vào năm 2022 chỉ ra rằng, phần lớn lực lượng lao động vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu về kỹ năng mềm, khả năng làm việc nhóm, và trình độ công nghệ thông tin.
Học sinh, sinh viên tốt nghiệp có năng lực chuyên môn chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn sản xuất - kinh doanh, dịch vụ; còn yếu về ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo tổ, nhóm, kỹ năng khởi nghiệp.
Qua khảo sát trong các doanh nghiệp FDI, các nhà đầu tư nước ngoài (FDI) ít hài lòng về chất lượng đào tạo nghề tại các địa phương và cho biết họ phải chi nhiều hơn cho việc đào tạo lại lao động mới tuyển vào.
Việt Nam cũng đang đối diện với thực trạng "thừa thầy thiếu thợ" và chất lượng đào tạo đại học vẫn chưa đồng bộ với nhu cầu thực tiễn. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Phát triển Nhân lực (2022), khoảng 40% sinh viên ra trường không tìm được việc làm đúng chuyên ngành, do thiếu hụt kỹ năng mềm và kinh nghiệm thực tế. Điều này đặt ra câu hỏi lớn về cách thức cải tiến hệ thống đào tạo hiện tại để đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường lao động.
Có thể khẳng định, nguồn nhân lực lao động Việt Nam có số lượng lớn nhưng chất lượng còn thấp, thiếu hụt lao động có tay nghề cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và hội nhập; khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp và nhu cầu của thị trường lao động ngày càng lớn.
Chúng ta chủ yếu vẫn chỉ khai thác lao động giá rẻ, lao động giản đơn, với 33,2% việc làm kỹ năng thấp, chỉ có 11,2% việc làm kỹ năng cao, cách khá xa so với trung bình các nước phát triển trên thế giới (20%)[13].
Kiến nghị một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng
Nguồn nhân lực chất lượng cao là tài nguyên quý giá, lực lượng đóng vai trò quan trọng, quyết định đến sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là đột phá chiến lược và là yếu tố quan trọng để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh, bảo đảm phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Đặc biệt, Tại Đại hội XIII Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược và yêu cầu cần tiếp tục gắn phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với “ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo”. Để thực hiện được định hướng trên, thời gian tới, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam cần tập trung vào một số nội dung sau:
Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng, lãnh đạo các cấp về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Thời gian tới, cấp ủy, lãnh đạo các cấp cần tiếp tục rà soát các quy định, quy chế, tìm ra những điểm bất hợp lý, không còn phù hợp trong thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện, giúp cho việc phát hiện, thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao được thống nhất, đồng bộ, chặt chẽ. Cần chú trọng việc mở rộng nhiều hình thức thu hút nhân tài, lựa chọn, tuyển dụng người tài qua nhiều kênh khác nhau, không nhất thiết qua con đường thi cử.
Để thực hiện thắng lợi giải pháp này cần nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị từ Trung ương xuống đến địa phương, nhất là những người trực tiếp làm công tác lãnh đạo, quản lý hoạt động khoa học, hoạt động giáo dục - đào tạo, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…
Đội ngũ này không chỉ cần nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về tầm quan trọng của khoa học, của đào tạo bồi dưỡng đội ngũ trí thức để từ đó có những chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện một cách đúng đắn, phù hợp nhằm khai thác tối đa tiềm lực khoa học trong xây dựng và phát triển đất nước.
Đi liền với nhiệm vụ đó, cần quan tâm, xây dựng chính sách đãi ngộ đặc thù đối với đối tượng là nguồn nhân lực chất lượng cao; đãi ngộ phải dựa trên hiệu quả công việc và thường xuyên điều chỉnh, bảo đảm tính cạnh tranh.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh việc đối mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các bậc học nhằm tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Cấp ủy, lãnh đạo các cấp cần quan tâm đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong các ngành, lĩnh vực theo hướng phát triển tối đa năng lực, phát triển những năng khiếu chuyên biệt. Nâng cao năng lực bồi dưỡng nhân tài của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Tập hợp, phát triển đội ngũ giảng viên tham gia chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhân tài là các chuyên gia, nhà giáo dục, khoa học, lãnh đạo, quản lý, kinh doanh đầu ngành, có trình độ, kinh nghiệm, uy tín cao ở trong và ngoài nước; chú trọng mời đội ngũ giáo sư, chuyên gia đầu ngành gốc Việt trở về làm việc, tham gia giảng dạy tại Việt Nam.
Đặc biệt, những người có học vị, học hàm thạc sỹ, tiến sỹ, giáo sư, phó giáo sư, có các công trình nghiên cứu được công nhận và ứng dụng hiệu quả cao vào đời sống thực tiễn, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đang công tác tại cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội có năng lực nổi trội, luôn hoàn thành tốt hoặc xuất sắc nhiệm vụ, công vụ, những người có trình độ, năng lực vượt trội và kinh nghiệm thực tiễn đang làm việc ở các lĩnh vực, khu vực, địa bàn khác kể cả trong và ngoài nước.
Ngoài ra, cần hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, tăng cường phân tầng, phân luồng, tổ chức, sắp xếp lại hệ thống giáo dục, nhất là giáo dục đại học và dạy nghề. Cần khắc phục sự bất hợp lý về quy mô đào tạo, cơ cấu ngành, nghề và cơ cấu vùng, miền, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ.
Bên cạnh đó, cần xác định đúng khả năng và nhu cầu đào tạo của các ngành, nghề, tăng cường công tác lập kế hoạch, dự báo thường xuyên và cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực của xã hội, nhất là nhu cầu của các doanh nghiệp, địa phương nhằm điều tiết quy mô, cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo cho phù hợp.
Chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên, kết hợp với chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là lao động ở nông thôn để giảm tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức; hình thành đội ngũ lao động lành nghề, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng.
Tăng cường đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng nhân lực xã hội; chú trọng trang bị, bồi dưỡng thêm kỹ năng mềm, kiến thức về ngoại ngữ, công nghệ thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Hoàn thiện việc xây dựng chuẩn đầu ra đối với các chương trình đào tạo, trước mắt là các nghề trọng điểm trên cơ sở tiêu chuẩn Khung trình độ quốc gia.
Sự phát triển của công nghệ số đã mở ra cơ hội cho việc đào tạo từ xa và học trực tuyến. Các nền tảng E-learning giúp người lao động có thể truy cập vào các khóa học chất lượng cao từ bất cứ đâu, bất cứ khi nào. Điều này đặc biệt hữu ích trong việc nâng cao trình độ kỹ năng cho người lao động ở các khu vực khó khăn tiếp cận giáo dục truyền thống.
Trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ phân tích dữ liệu lớn (Big Data) có thể giúp cá nhân hóa quá trình học tập, tạo ra các chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu và khả năng của từng học viên, từ đó nâng cao hiệu quả đào tạo.
Ba là, đẩy mạnh quy hoạch tổng thể mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hệ thống các cơ sở giáo dục có vai trò quan trọng. Những năm qua, mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp được sắp xếp, quy hoạch, phân bổ theo hướng hoàn thiện, hợp lý hơn. Đã hình thành mạng lưới trường cao đẳng chất lượng cao, các ngành, nghề trọng điểm tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động.
Tuy nhiên, quá trình này vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Do đó, cần phải tiến hành quy hoạch, sắp xếp lại một cách tổng thể mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, dễ tiếp cận, đa dạng về loại hình, phân bổ hợp lý về cơ cấu ngành nghề, trình độ, vùng miền; gia tăng các ngành thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, gắn với nhu cầu của xã hội; thống nhất quản lý Nhà nước đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; nâng cao năng lực hoạt động đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề nghiệp nhất là nhân lực chất lượng cao.
Bốn là, cần tạo nguồn kinh phí dồi dào để thực hiện chính sách hỗ trợ một lần và chính sách ưu đãi khác về lương và thu nhập đảm bảo ổn định của nhân lực chất lượng cao so với các cán bộ, công chức, viên chức khác.
Giải pháp này đòi hỏi, các cơ quan, ban ngành phát huy tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo trong công tác tham mưu cho Đảng, Nhà nước để xây dựng và cân đối nguồn lực ngân sách đảm bảo việc thu hút, trọng dụng người có tài năng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên cả nước.
Cấp ủy Đảng, lãnh đạo các cấp cần xem xét, xây dựng khung chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài được áp dụng đối với các lĩnh vực lãnh đạo, quản lý; kinh tế; khoa học - công nghệ; an ninh - quốc phòng; ngoại giao; giáo dục và đào tạo; y tế; văn hóa - nghệ thuật; thể dục - thể thao.
Trong đó bao gồm các chính sách về tuyển dụng, quản lý, sử dụng nhân tài, đặc biệt lưu ý đến việc bố trí công việc, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ gắn với tài năng, cống hiến của nhân tài cũng như các chính sách đột phá trong quy hoạch, bổ nhiệm đối với nhân tài.
Ngoài ra, còn có các chính sách về khen thưởng, tôn vinh; ưu đãi, đãi ngộ nhà ở, chế độ tiền lương, tiền thưởng, thu nhập, thuế thu nhập cá nhân; chính sách hỗ trợ về thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh, cấp thị thực, cư trú đối với nhân tài Việt Nam ở nước ngoài trở về nước cống hiến cho đất nước.
Năm là, tăng cường mối liên kết giữa doanh nghiệp và cơ sở giáo dục, đảm bảo sinh viên có cơ hội thực tập và trải nghiệm thực tế.
Một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu và Phát triển Giáo dục Việt Nam (2021) cho thấy, những sinh viên có cơ hội thực tập thường có khả năng tìm việc làm cao hơn 20% so với những sinh viên không có kinh nghiệm thực tế. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Nhà nước cần xây dựng các chương trình quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài để bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực đã được đào tạo ở nước ngoài.
Thực hiện tốt chính sách phân bổ nguồn lực chất lượng cao cho các thành phần kinh tế, các vùng, miền, địa phương có điều kiện khó khăn để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền; quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ, tay nghề cho lao động nông thôn. Trên cơ sở các chương trình, chính sách quốc gia các cấp, ngành, địa phương cần căn cứ vào nhu cầu, điều kiện thực tiễn để có chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài hợp lý.
Việc kết nối giữa doanh nghiệp và nhà trường giúp sinh viên có cơ hội tiếp cận thực tiễn ngành nghề, được đào tạo theo yêu cầu thực tế của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cũng cần tham gia vào việc xây dựng chương trình đào tạo, giúp cải thiện tính thực tiễn và khả năng thích ứng của sinh viên sau khi ra trường. Doanh nghiệp có thể mở rộng các chương trình thực tập và học việc, giúp sinh viên có cơ hội tiếp xúc với thực tiễn công việc và phát triển các kỹ năng cần thiết. Điều này cũng giúp doanh nghiệp dễ dàng phát hiện và thu hút nhân tài.
Trong một môi trường làm việc kết nối toàn cầu, các kỹ năng mềm như làm việc nhóm, giao tiếp hiệu quả, và khả năng lãnh đạo trở nên vô cùng quan trọng. Để đáp ứng nhu cầu này, các chương trình đào tạo cần tích hợp việc phát triển kỹ năng mềm bên cạnh các kỹ năng chuyên môn.
Ngoài ra, cần quan tâm việc khuyến khích khởi nghiệp trong các lĩnh vực công nghệ cao và sáng tạo sẽ giúp phát triển nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo và tự chủ. Việc hỗ trợ khởi nghiệp, đặc biệt là đối với các dự án liên quan đến công nghệ và Cách mạng 4.0, sẽ thúc đẩy phát triển nền kinh tế tri thức.
Nhà nước nên quan tâm hỗ trợ các sáng kiến đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp đồng thời cần tạo ra một môi trường làm việc linh hoạt, hỗ trợ các ý tưởng mới và cung cấp nguồn lực để triển khai các sáng kiến này.
Trong con đường phát triển đất nước bền vững, Đại hội Đảng lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”, do đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt để đảm bảo sự thành công của Việt Nam trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.
Trong những nguồn lực cần huy động, nguồn lực con người vẫn sẽ là yếu tố quyết định, bởi đây được coi là nguồn lực vô tận, phong phú, vô giá, quý báu nhất, duy nhất sáng tạo và có khả năng sinh ra giá trị lớn hơn nhiều lần bản thân nó, trong quá trình sản xuất xã hội. Khả năng sáng tạo, tích cực, chủ động của nhân tố con người cho phép khai thác tính vô tận của đối tượng sản xuất và quy trình công nghệ.
Để có được nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển đất nước không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực từ các cơ sở giáo dục, doanh nghiệp, mà còn từ chính các cá nhân người lao động trong việc chủ động nâng cao kỹ năng và kiến thức của bản thân.
Chính phủ và doanh nghiệp cần phối hợp để xây dựng các chính sách, chương trình hỗ trợ và tạo ra môi trường thuận lợi cho việc phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của thị trường lao động toàn cầu.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Đình Bắc (2018), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, https://www.tapchicongsan.org.vn/
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tập 1,2, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Hương (2023). Thực trạng và giải pháp chính sách thu hút trọng dụng nhân tài trong khu vực công. https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thuc-trang-va-giai-phap-chinh-sach-thu-hut-trong-dung-nhan-tai-trong-khu-vuc-cong-105296.htm.
6. Ninh Thị Hoàn Lan (2022). Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh nền kinh tế số ở Việt Nam. https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/giai-phap-phat-trien-nguon-nhan-luc-trong-boi-canh-nen-kinh-te-so-tai-viet-nam-89049.htm.
7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. 4, tr. 114
8. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thi-truong-lao-dong-viet-nam-nam-2023/
9. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn