Phân bón an toàn
Chùm ngây (tên khoa học là Moringa oleifera M.) là loại cây mọc hoang phân bố ở nhiều địa phương trên cả nước. Hiện nay, chùm ngây đã được sử dụng rộng rãi trong công nghệ dược phẩm, mỹ phẩm, nước giải khát, dinh dưỡng và thực phẩm chức năng tại hơn 80 quốc gia trên thế giới.
Lá chùm ngây rất giàu dinh dưỡng và được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO) xem như là giải pháp ưu việt cho các bà mẹ thiếu sữa và trẻ em suy dinh dưỡng.
Tại Việt Nam, nhu cầu tiêu thụ lá chùm ngây làm rau, sản xuất trà túi lọc, bột dinh dưỡng ngày càng tăng cao kéo theo lượng phụ phẩm gồm thân, cuống lá già và các bộ phận không sử dụng khác bị thải bỏ, gây lãng phí lớn và ảnh hưởng đến môi trường nếu không được xử lý đúng cách.
Giải quyết bài toán này, các nhà khoa học tại Viện Công nghệ sinh học, Đại học Huế đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu sản xuất thử nghiệm phân bón hữu cơ cho một số loại rau ăn lá từ phụ phẩm cây chùm ngây”. Đề tài do PGS.TS Trương Thị Hồng Hải – Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học, Đại học Huế làm chủ nhiệm.
“Mục tiêu của đề tài là xản xuất và thử nghiệm được một số sản phẩm phân bón hữu cơ cho một số loại rau ăn lá từ phụ phẩm cây chùm ngây. Phân bón này an toàn cho cây trồng, đất, có thể sử dụng để canh tác nông nghiệp hữu cơ”, PGS.TS Trương Thị Hồng Hải cho biết.
Sau 2 năm thực hiện, nhóm nghiên cứu đã xây dựng được quy trình sản xuất phân bón hữu cơ chùm ngây (Moringa oleifera M.). Dựa trên quy trình công nghệ xây dựng được, nhóm tiến hành sản xuất thử nghiệm phân bón hữu cơ Moringa và phân bón thủy canh hữu cơ Moringa.
Để so sánh hiệu quả của phân bón lá hữu cơ chùm ngây với phân bón lá hóa học NPK, nhóm thực hiện đối chứng trên cây xà lách, cải xanh và mồng tơi lá to.
PGS.TS Trương Thị Hồng Hải cho biết, thí nghiệm được thực hiện trong vụ Xuân 2019 tại Thừa Thiên - Huế. Phân bón lá hữu cơ chùm ngây được thử nghiệm ở các tỉ lệ 1:10, 1:20, 1:30, 1:40, 1:50 với nước. Kết quả cho thấy, các công thức sử dụng phân bón lá có ảnh hưởng khác nhau đến khả năng sinh trưởng và phẩm chất của các loại rau.
Đối với rau xà lách, sử dụng phân bón lá hữu cơ chùm ngây tỉ lệ 1:30 cho năng suất 24,48 tấn/ha. Đối với rau cải xanh và mồng tơi lá to, năng suất đem lại tương ứng là 28,9 tấn/ha và 31,39 tấn/ha khi bón phân hữu cơ chùm ngây tỉ lệ 1:10. Các công thức này đều cho tỉ lệ phần ăn được trên 55%.
Năng suất là kết quả của quá trình sản xuất, là chỉ tiêu quan trọng đánh giá một cách toàn diện, chính xác nhất cho quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng trong một chu kỳ sống của chúng. Năng suất được quyết định bởi yếu tố di truyền của giống.
Ngoài ra, nó còn chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện ngoại cảnh như thời tiết, khí hậu và đất đai. Năng suất sinh học cho biết tiềm năng cho năng suất của các loại rau ăn lá trong thí nghiệm.
Hầu hết các công thức thí nghiệm có năng suất sinh học trên 30 tấn/ha. Kết quả này cao hơn so với kết quả nghiên cứu về hiệu lực của phân đạm đối với rau xà lách trên đất phù sa ở tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Rút ngắn thời gian sinh trưởng
“Như vậy, phân bón lá hữu cơ chùm ngây tỉ lệ 1:10 và 1:30 mang lại hiệu quả tốt đối với các loại rau ăn lá về cả năng suất lẫn chất lượng. Đặc biệt, phân bón lá hữu cơ chùm ngây tỉ lệ 1:10 thể hiện ưu thế hơn so với các loại phân bón lá còn lại.
Do đó, có thể sử dụng loại phân bón lá này trong điều kiện sản xuất thực tế và những vùng có điều kiện tương tự điều kiện thí nghiệm nhằm đạt kết quả tốt và tiết kiệm chi phí trong trồng trọt”, PGS.TS Trương Thị Hồng Hải nhấn mạnh.
Không chỉ cho năng suất cao, phân bón lá hữu cơ chùm ngây còn rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây. Cụ thể, các loại rau thử nghiệm đều có thời gian sinh trưởng và phát triển là 31 - 38 ngày.
Trong đó, xà lách và cải xanh có thời gian thu hoạch ngắn nhất là 31 ngày, mồng tơi lá to là 38 ngày. Theo TS Hải, thời gian sinh trưởng là yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của các loại rau, là cơ sở cho việc bố trí cơ cấu mùa vụ thích hợp.
Theo PGS.TS Trương Thị Hồng Hải, sử dụng phân bón lá trong canh tác được xem là một chiến lược quan trọng nhằm quản lý cây trồng. Phương pháp này có thể tối đa hóa năng suất và chất lượng cây trồng bằng cách cung cấp các nguyên tố dinh dưỡng đa lượng, vi lượng, chất điều hòa sinh trưởng, kích thích tố thực vật và các chất có lợi khác cho cây.
Do đó, sản phẩm phân bón hữu cơ Moringa và phân bón thủy canh hữu cơ Moringa từ đề tài được xem là một giải pháp hiệu quả nhằm tái tạo nguyên liệu làm phân bón an toàn cho cây trồng, tiết kiệm chi phí sản xuất và hạn chế gây ô nhiễm môi trường.
Phân bón lá hữu cơ chùm ngây tỉ lệ 1:10 và 1:30 mang lại hiệu quả tốt đối với các loại rau ăn lá về cả năng suất lẫn chất lượng. Đặc biệt, phân bón lá hữu cơ chùm ngây tỉ lệ 1:10 thể hiện ưu thế hơn so với các loại phân bón lá còn lại.
Nhóm nghiên cứu đang tiếp tục triển khai ở quy mô rộng hơn, trong các điều kiện tự nhiên khác nhau để đánh giá tối ưu của phân bón này. Nhóm hy vọng có thể phát triển nghiên cứu thành dây chuyền sản xuất, đưa phụ phẩm cây chùm ngây thành nguyên liệu sản xuất phân bón bền vững.