Phần 1: Văn hóa xưa

GD&TĐ - Văn hóa Nhật Bản đã trải qua hàng nghìn năm hình thành và phát triển, và có những đặc trưng rất riêng mang đậm bản sắc dân tộc. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về những nét văn hóa đặc sắc của Nhật Bản.

Phần 1: Văn hóa xưa

Ẩm thực

Ẩm thực Nhật Bản luôn được biết đến với sự tỉ mỉ, kỹ năng cao và cẩn thận đến từng chi tiết của món ăn. Mỗi khu vực ở Nhật Bản có nhiều món ăn đặc sản riêng với các thành phần được lựa chọn cẩn thận để bổ sung cho hương vị riêng của nó.

Gạo là thực phẩm thiết yếu và là nguồn dinh dưỡng trong nhiều thiên niên kỷ và đã được sử dụng để sản xuất nhiều sản phẩm khác nhau như bánh gạo và gia vị: từ Sushi, Okonomiyaki, Teppanyaki, Teriyaki, Tempura, Udon và Yakitorit. Washoku gần đây đã được đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO (Tổ chức khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc).

Đây là những thực phẩm truyền thống thường xuyên được ăn ở nhà hàng ngày; Nó bao gồm cơm, súp, dưa chua và các món ăn phụ để làm cho cơm ngon hơn.

Chùa ( Shukubo )

Các ngôi chùa và miếu ở Nhật Bản đều có chỗ ở cho khách du lịch và phục vụ họ các món ăn chay truyền thống. Các dịch vụ Phật Giáo đều được tổ chức vào sáng sớm ở ngôi chùa Shukubo.

Trong buổi lễ, linh mục trưởng và các nhà sư của chùa tụng kinh Phật trong sảnh chính của chùa. Nó có thể được lưu ý nhiều ngôi đền cung cấp một khóa học về thiền. Trong quá khứ, nhà nghỉ chùa chỉ dành cho các nhà sư tham gia các hoạt động kỷ luật.

Tuy nhiên, những ngôi chùa Phật giáo những ngày này mở cửa cho khách du lịch bất kể tín ngưỡng của họ là gì. Đây là lý do tại sao du lịch tôn giáo và lòng hiếu khách mà các ngôi đền mang lại, là một lựa chọn phổ biến của du khách nước ngoài.

Ví dụ điển hình nhất về điều này sẽ là Koyasan có hơn 50 ngôi đền. Nó đã được trao tặng như một phần của Địa điểm linh thiêng và các tuyến đường hành hương trong dãy núi Kii, một nơi trong danh sách di sản thế giới uy tín của UNESCO.

Geisha

Geisha được coi là người trông coi sống của văn hóa Nhật Bản và là một trong những biểu tượng được biết đến của Nhật Bản. Về bản chất, họ là những nghệ sĩ biểu diễn, lão luyện trong việc chơi một loạt nhạc cụ, điệu nhảy truyền thống và trò chuyện theo phong cách.

Lễ hội về trà

Một buổi trình bày văn hóa và nghi lễ của Matcha (trà xanh bột). Buổi lễ là để hình thành một mối liên kết giữa chủ nhà và khách thể hiện tinh thần hào phóng và tôn trọng. Trà đạo Nhật Bản là một truyền thống lâu đời, loại bia tươi được giới thiệu lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 9.

Việc sử dụng ban đầu của nó là cho các nghi lễ tôn giáo trong các tu viện Phật giáo đang diễn ra để trở thành một biểu tượng địa vị cho các quan chức khá giả và quân đội.

Trong những năm qua, uống trà đã được mở rộng đến các cấp độ khác nhau. Sen no Rikyū, một nhân vật lịch sử và bậc thầy về trà danh dự, đã giới thiệu bốn nguyên tắc của Chanoyu, Wa Kei Sei Jaku (hòa hợp, tôn trọng, tinh khiết và yên tĩnh).

Các thành phần thiết yếu trong trà đạo là Natsume (trà caddy), Chakin (vải gai dầu), chasen (whisk), chasaku (muỗng trà), chawan (bát trà) và Kama / Chanoyugama (nồi sắt hoặc ấm đun nước).

Đấu vật su mô

Su mô có 1 truyền thống lâu dài và đáng tự hào của Nhật Bản. Nó có các quy tắc và truyền thống nghiêm ngặt đã tồn tại hiện đại và vẫn được tuân thủ nghiêm ngặt.

Có những nghi thức và nghi lễ được thực hiện trước khi luyện tập và từng cơn. Ý tưởng đằng sau môn thể thao này là hai Rikishi (đô vật) tranh nhau, đẩy và cố gắng ném nhau ra khỏi Dohyo (vòng tròn).

Người chiến thắng là đô vật buộc đối thủ của mình xuống đất hoặc ra khỏi vòng tròn. Người Rikishi mặc tóc búi cao, không mặc gì ngoài Mawashi (khố). Có sáu Basho (giải đấu) một năm, mỗi lần giữ 15 trận.

Origami

Origami là một loại nghệ thuật của văn hóa Nhật Bản. Họ sẽ dùng giấy và gấp thành nhiều hình thù khác nhau. Trẻ con rất thích origami, ở Nhật Bản, trẻ con tiểu học sẽ được học cách gấp origami. Có rất nhiều người chỉ cn 60 giây để hoàn thành một tác phẩm origami.

Nghệ thuật cắm hoa

Cũng giống như Việt Nam, Nhật Bản cũng có nghệ thuật cắm hoa vô cùng nổi tiếng. Nghệ thuật này đã xuất hiện ở văn hóa được hơn 600 năm nay và nó được phát triển từ một nghi thức hiến tế hoa cho những linh hồn đã chết của Phật Giáo.

Theo Japanese travel

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Tỷ lệ sinh tại Nam Á bắt đầu giảm.

Phụ nữ Nam Á ngại… sinh con

GD&TĐ - Ngày càng nhiều phụ nữ tại Nam Á không muốn sinh con vì những lý do như tài chính, trách nhiệm gia đình, thậm chí là lo sợ về ngày 'tận thế'.