Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, thì đồng Dinar của Kuwait (KWD) là đồng tiền có giá trị nhất ở châu Á, không chỉ vậy còn được thanh toán khắp thế giới. Nó đã ra đời từ năm 1960 khi lần đầu tiên được thay cho đồng rupee vùng Vịnh (Gulf rupee), và vào năm 1990 lại bị thay thế bằng đồng Dinar của Iran.
Tuy nhiên, KWD đã lấy ngay lại sức mạnh sau đó nhờ Kuwait có thu nhập bình quân đầu người cực lớn do có nhiều mỏ dầu đắt giá, và là nhà xuất khẩu dầu hàng đầu châu lục. Hiện tại, giá trị quy đổi của một Dinar tương đương 2,9 Euro hay 3,29 USD, và được kiểm soát bởi Ngân hàng trung ương Kuwait.
Đồng Dinar Bahrain (BHD) cũng có giá trị cao (một Dinar bằng 1.000 fils), và cũng lưu hành năm 1965 thay cho Gulf Rupee. Cái tên Dinar ở đây được lấy cảm hứng từ thuật ngữ denarius của La Mã. Là đơn vị tiền tệ đứng thứ hai ở châu Á.
Oman Rial (OMR) lại có giá trị xấp xỉ 2,29 Euro và 2,60 USD, và là đồng tiền của Oman từ năm 1973 sau ba năm có mặt đồng Saidi Rial. Sự thay đổi về tiền tệ này là cần thiết vì có sự thay đổi tên nước và thể chế. Hiện nay, Oman Rial được chia thành 1.000 baisa và có nhiều mệnh giá, gồm 100 baisa, 200 baisa, 1 rial, 5 rials, 10 rials, 20 rials và 50 rials.
Đồng tiền lưu hành tại Jordan cung là đồng Dinar với giá trị bằng 10 dirhams, 100 qirshes hay 1.000 fulus. Chính thức được thanh toán vào ngày 1/7/1950 với mã JOD, nó đã mau chóng đạt tới đích là một trong những đồng tiền mạnh nhất của châu lục nhờ sự ổn định cao. Hiện tại, JOD đang được quy đổi ở mức 1,24 Euro hoặc 1,41 USD.
Đồng Dollar của Singapore từng đứng thứ 12 châu Á vào năm 2016 và hiện giờ vươn lên thứ năm. Trong thời gian gần đây, nước này đang cố gắng trở thành một trung tâm thương mại uy tín trên thế giới, thu hút rất nhiều nhà đầu tư đa quốc gia. Đồng dollar Singapore (SGD) có nhiều mệnh giá, và hiện một SGD tương đương 0,65 Euro hay 0,74 USD.
Brunei cũng có đồng dollar cùng giá trị tương đương, song nước này vẫn đứng ở hàng thứ sáu. Brunei Dollar đã bắt đầu được lưu hành vào năm 1967 và có giá trị tăng vọt nhờ ngành xuất khẩu dầu đang phát triển.
Đồng Manat cũng đã góp mặt từ năm 1993 tại Turkmenistan thay cho đồng rúp của Nga. Hiện nay, nó tương đương với 0,25 Euro hay 0,29 USD là nhờ nền kinh tế vững mạnh, có một lượng dầu khí khổng lồ, nền nông nghiệp tiên tiến biến các sa mạc khô cằn thành những đồng bông và lúa mỳ mênh mông.
Đồng Riyal của Qatar cũng có thể thay đồng Rupee của Ấn Độ từ năm 1966, và có vị trí cao trong hệ thống tiền tệ châu Á, với một Riyal đổi được 0,24 Euro hay 0,27 USD. Một Riyal cũng được chia thành 100 dirhams, gọi chung là QR. Hai nguồn tài nguyên khoáng sản là khí ga tự nhiên và dầu mỏ đang nuôi tới 60% GDP của Qatar, trong đó 85% từ giá trị xuất khẩu.
Emirati Dirham là đồng tiền của các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất - UAE. Vào năm 1973, nó đã thay thế cho đồng Qatar và Dubai Riyal nhờ sức mạnh của dầu khí. Chính dầu khí chính đã thúc đẩy UAE, đưa nước này thành nền kinh tế lớn thứ hai toàn xứ sở Ả Rập và cho Emirati Dirham có giá trị hôm nay bằng 0,24 Euro hay 0,27 USD.
Được dùng ở cả Israel và các lãnh thổ Palestine, đồng Shekel của Israel là tiền mới thay cho tiền cũ cũng tên Shekel vào năm 1986, và hiện được chia thành 100 agora. Bằng chính sách tiền tệ cẩn trọng, Israel đã đưa đồng tiền này tăng trưởng 20% giá trị vào các năm đầu thế kỷ 21 và giữ tỷ giá bằng 0,24 Euro hoặc 0,28 USD cho đến nay.
Riyal của Ả Rập Xê Út cũng đứng thứ 11 về giá trị tiền tệ. Vị trí tiền tệ các quốc gia theo thứ tự : Ringgit Malaysia 12; Yuan Trung Quốc 13; Dollar Hồng Công 14; Pataca Ma Cau 15; Somoni Tajikistan 16; Rufiyaa Maldives 17; Dollar Đài Loan 18; Baht Thái Lan 19; Peso Philipin 20…
Trong tương lai, cũng có nhiều nước ở Đông Nam Á sẽ vươn lên trở thành những nước có tiền tệ đắt giá nhờ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân lực phong phú.