Nội dung được trích từ cuốn sách Gương mặt những người bạn cùng thế hệ, do NXB Trẻ ấn hành nhân 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9.
Cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố hơn tôi quá hai chục tuổi, thuộc lớp chú bác mình. Cụ là bậc thâm nho, lại tinh thông Tây học, đã từng chữa bài văn tiếng Pháp, thậm chí có lần sửa be bét cho một đồng sự trẻ, cử nhân văn chương du học ở Pháp về.
Điều đặc sắc của cụ là luôn luôn chỉnh tề trong bộ đồ cổ truyền: khăn xếp, áo the thâm, ô lục soạn. Cho nên bọn sinh viên chúng tôi thuở ấy quý cụ, kính trọng cụ mà cứ khép nép đứng xa!
***
Thế nhưng một hạnh ngộ đưa tôi lại gần cụ. Số là buổi tối cuối năm 1942, có hai vị khách lạ đến chơi nhà, tự xưng ở trong Ban Trị sự Hội Truyền bá quốc ngữ, tên là Phước - Thủ quỹ, và Khái - Trưởng ban Khánh tiết, được cụ Hội trưởng cử đến thăm vị chủ nhiệm báo Thanh Nghị.
Hai ông trao bức thư cụ Nguyễn Văn Tố mời tôi tới hội quán Trí Tri diễn thuyết về vấn đề giáo dục bình dân, về quốc nạn thất học và về hoài bão của Hội Truyền bá quốc ngữ.
Chả là - hai ông nói trịnh trọng - cụ Hội trưởng rất hâm mộ vị nhà báo kiêm nhà giáo qua các bài viết về những vấn đề trên. Tôi nhận lời.
Buổi nói chuyện (vào đầu năm 1943) rất đông thính giả, ngồi chật ních hội trường. Thành phần gồm đủ mặt giới thượng lưu Hà thành và sinh viên học sinh, nam thanh nữ tú.
Bài nói tôi chuẩn bị kỹ (sau có đăng báo Thanh Nghị), khi nói lại xen mấy câu thơ dân dã mà gợi cảm của các lớp i tờ:
O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội mũ, ơ là đeo râu...
Buổi nói chuyện được người nghe khen ngợi. Sự thật là nhờ ngọn lửa yêu nước mà cụ Hội trưởng đã khơi dậy trong người nghe khi giới thiệu diễn giả.
Ra về, cụ mời tôi đến dự phiên họp tới của ban trị sự hội để bàn kế hoạch mở rộng phong trào. Cụ đề nghị với hội nghị tạm bổ sung tôi vào ban trị sự, đương nhiên đại hội sau sẽ chính thức hóa...
Tôi thì cụ phân công đi cổ động phát triển cơ sở ở các tỉnh xa. Ví dụ đi Kiến An, ở đấy có kỹ sư Nguyễn Xiển - Giám đốc Đài Thiên văn ở Phủ Liễn, hoặc đi Lạng Sơn, có tri châu Lã Văn Lô - Một tráng sinh hướng đạo.
Xa hơn cả là đi Huế, có Đào Đăng Vỹ - Bạn học cũ, Hiệu trưởng Lyceum Việt Anh trong Hội Quảng trí.
Về phần cụ thì cụ dồn sức đi kinh lý kiểm tra, củng cố các lớp vừa tản cư ra ngoại thành tránh bom đạn đồng minh, thuộc vùng Khương Thượng, Khương Hạ ở phía nam thành phố. Cụ thường rủ tôi cùng đi.
Cụ nói với tôi: “Ông còn trẻ, chuyện trò với đám giáo viên trẻ, số đông đều là sinh viên, hướng đạo sinh - độc giả báo Thanh Nghị cả đấy! Ông bảo, họ dễ nghe. Bảo họ nên bớt hát những bài ca cách mạng đi. Tụi mật thám cứ nhung nhúc như rươi, không thấy à?”.
***
Tôi thích tác phong giản dị xuề xòa của ông già này, già mà trẻ vì mép, cằm luôn nhẵn nhụi: cụ không để râu.
Cụ có lối nói bình dân, thái độ khiêm nhường, chân tình, dễ mến. Đi thanh tra lớp học, cụ thường lân la vào nhà các đồng bào nghèo, giục theo lớp, tiện thể hỏi han về đời sống, công việc làm ăn, được bà con mến lắm. Tôi học được nhiều ở cụ.
Mặt khác, cụ lại khéo ngoại giao với các cụ lớn Tây, ta, sách lược khi cương khi nhu, có lùi có tiến, nhờ vậy hội nhiều phen vượt thác ghềnh suôn sẻ.
Nhưng cái khó lại chính từ anh em cộng sự trẻ, rất hăng hái mở lớp và hướng dẫn bà con học. Khổ một nỗi đôi khi quá hăng! Dễ hiểu.
Phe Dân chủ đang phản công quyết liệt ở châu Âu. Đối phó lại, Nhật cựa quậy mạnh, chèn Pháp ở Đông Dương.
“Cơ hội đến rồi. Còn do dự gì nữa”. Tranh luận nảy lửa trong các buổi họp của ban trị sự với các cán bộ trụ cột tận tụy. Có lần áp suất không khí tăng đến mức cụ hội trưởng phải tắt phụt đèn. Phòng họp tối om. Cụ Tố cười xòa, nói vài lời pha trò, làm tình hình dịu hẳn...
Cụ tin cậy tôi, tuy ít tuổi nhưng mát tính. Cụ bảo khẽ tôi: “Bọn Tây nó xỏ lá lắm. Đúng là toàn quyền Decoux có thông tri thúc công sứ các tỉnh ủng hộ mình lập chi nhánh. Lấy lòng mà. Nhưng chắc ông cũng biết tỏng tim đen họ: xui ta bộc lộ lực lượng. Ta lợi dụng, “tương kế tựu kế”. Nhưng sơ hở thì có mà chết cả nút! “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, ông nhỉ”.
Tôi thông cảm mối lo của cụ. Tiện dịp, tôi cũng nói rõ quan điểm của mình, rằng một hội tư nhân thì nên tự hạn chế ở vai trò “gây men” là thượng sách. Sức đâu mà giải quyết được nạn thất học cho toàn dân. Một đại vấn đề. Sẽ đặt ra sau này cho Chính phủ khi nước nhà độc lập. Còn bây giờ thì cố gắng hết cỡ nhưng chớ có nôn nóng.
Cụ Tố tán thành ý kiến đó, rất hợp với ý cụ. Từ lâu cụ vẫn khuyên anh em đồng sự chăm lo trau chuốt phương pháp sư phạm.
Thanh Nghị đã đăng bài của cụ, tóm tắt các buổi cụ nói chuyện với giáo viên, khuyên khi dạy luân lý nên chú trọng đề cao các đức tính thông thường ngàn đời về đạo làm người: hiếu thảo, cần cù, lễ phép, thân ái, giúp đỡ người nghèo, nói lời thì giữ lấy lời, cố gắng làm việc làng việc nước cho hết bổn phận...
Không phải cụ không nói đến những vấn đề cao xa. Thanh Nghị có đăng bài của cụ nghiên cứu về tính hiếu học của dân ta, về vai trò của các hương sư, các nhà nho xưa kia trong xóm làng, về nguồn gốc chữ viết riêng của tộc Việt thời cổ đại (không giống chữ Hán).
Ở thuở xa xăm ấy, thôn xã ta đã biết lập sổ đinh. Thế là tổ tiên ta xửa xưa không mù chữ. Thật đáng tự hào! Hoan hô ông già!
Về phần tôi, nhằm cái thiết thực, tôi nghiên cứu viết chương trình, bài giảng, cách dạy cho các lớp người lớn.
- Tốt lắm. - Cụ nói - Chính việc ấy có ghi trong điều lệ hội. Mục đích nâng cao dân trí mà.
- Vâng. - Tôi đáp - Ít nhất để: biết đọc rồi, đồng bào sẵn có cái gì mà đọc, tránh mù chữ trở lại.
Hai chúng tôi đang tập trung sức theo hướng ấy thì Việt Minh gấp rút chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
Rồi tổng khởi nghĩa…
Nguyễn Văn Tố thuở nhỏ theo học chữ Hán, sau học tiếng Pháp ở Trường Thông ngôn. Tốt nghiệp, ông được nhận vào làm việc tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. Do học vấn Đông - Tây đều uyên thâm, ông được các đồng nghiệp Pháp, Việt rất nể trọng. Ông từng làm hội trưởng Hội Trí Tri, năm 1938, khi Hội Truyền bá quốc ngữ được thành lập, ông được bầu làm hội trưởng. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông giữ chức bộ trưởng cứu tế xã hội trong Chính phủ Nhân dân lâm thời. Ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I và là trưởng Ban thường trực đầu tiên, sau được cử giữ chức bộ trưởng không bộ (quốc vụ khanh) trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Trong cuộc tấn công của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc, ông bị chúng bắt và bắn chết ngày 7-10-1947. |
___________
Kỳ tới: Bộ trưởng đầu tiên hi sinh trên chiến trường
Nguyễn Văn Tố thuở nhỏ theo học chữ Hán, sau học tiếng Pháp ở Trường Thông ngôn. Tốt nghiệp, ông được nhận vào làm việc tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội. Do học vấn Đông - Tây đều uyên thâm, ông được các đồng nghiệp Pháp, Việt rất nể trọng. Ông từng làm hội trưởng Hội Trí Tri, năm 1938, khi Hội Truyền bá quốc ngữ được thành lập, ông được bầu làm hội trưởng. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông giữ chức bộ trưởng cứu tế xã hội trong Chính phủ Nhân dân lâm thời. Ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I và là trưởng Ban thường trực đầu tiên, sau được cử giữ chức bộ trưởng không bộ (quốc vụ khanh) trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Trong cuộc tấn công của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc, ông bị chúng bắt và bắn chết ngày 7-10-1947. |
___________