Ngắm cầu ngói cổ, uống nước cối đá ở chùa Trăm Gian thành Nam

GD&TĐ - Không chỉ Hà Nội mới có chùa Trăm Gian, Nam Định cũng có một ngôi chùa cổ cùng tên, xuất phát từ kiến trúc tổng thể trăm gian.

Chùa Lương (Trăm Gian) được bắt đầu xây từ thời vua Lê Hồng Thuận (1509 - 1515).
Chùa Lương (Trăm Gian) được bắt đầu xây từ thời vua Lê Hồng Thuận (1509 - 1515).

Xung quanh cổ tự, còn hệ thống những di tích, chứng tích độc đáo lẫn lạ lùng ở vùng đất được mở mang hơn 500 năm trước.

Chùa lớn xây trên đất rồng

Chùa Trăm Gian thuộc xã Hải Anh (Hải Hậu, Nam Định) có tên chính thức là chùa Lương do gần chợ Lương và tên Nôm là Phúc Lâm tự. Hội chùa Lương được tổ chức từ ngày 13 - 16/3 âm lịch hàng năm, nhằm suy tôn Trần Vũ, Vũ Chi, Hoàng Gia, Phạm Cấp - bốn tổ từ Cổ Lễ sang khai khẩn, lập ấp năm 1486.

Theo sách “Quần Anh địa chí” còn lưu giữ, đất Hải Hậu xưa vốn có tên là Quần Anh - nghĩa là mảnh đất hội tụ quây quần của các anh tài hào kiệt. Nơi này trước đây vốn chỉ là một cồn ấp nhỏ bé. Khoảng năm 1485, bốn vị thủy tổ nhận thấy đây là một nơi có địa thế đẹp nên quyết định khai khẩn, xây dựng làng xã. Thế đất có dáng rồng, cồn vươn lên phương Bắc, uốn lượn thành 9 khúc.

Chùa Lương được xây dựng vào đời vua Lê Hồng Thuận (1509 - 1515) cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16. Khi mới được xây dựng chỉ có 5 gian lợp cỏ khô, và lấy tên là Phúc Lâm tự - nghĩa là phúc nhiều như cây rừng. Sau này, chùa tôn tạo, xây dựng bề thế nên dân gian gọi là chùa Trăm Gian. Cái tên xuất phát từ chính kiến trúc tổng thể của ngôi chùa với đúng 100 gian phòng.

Hàng chữ ghi trên thượng lương “Dương hoà nguyên niên” (1634), theo bia khắc năm Chính Hoà thứ ba (1682), và năm thứ năm (1684) cho biết có việc tu sửa chùa, dựng thêm hai dãy hành lang Đông - Tây, và đồ thờ tự bằng đá.

Các tấm bia có niên hiệu Vĩnh Thịnh, Vĩnh Khánh, Cảnh Thịnh chép lại việc dựng thêm thượng điện, tiền đường, tam quan, nội các và tượng tam thế. Sang thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 chùa vẫn tiếp tục được tu sửa, và lần tu sửa lớn nhất là đổi hướng chùa ra phía Nam.

Ngôi chùa mang phong cách kiến trúc của nhiều thời đại, nhưng đậm nét nhất là phong cách thời nhà Nguyễn. Chùa dựng trên thế đất đẹp và thoáng, trước chùa là hồ nước xanh như tấm gương in bóng tam quan.

Những công trình quan trọng tập trung trong hai khu vực chính tất cả có 49 gian bao gồm: Tiền đường, tam bảo, gác chuông, hậu đường và hai dãy hành lang Đông - Tây được liên kết lại theo nối giao mái, bắt vần, tạo nên một tổng thể kiến trúc hài hoà.

Nổi bật hơn cả là tiền đường năm gian bảo lưu kiến trúc đậm đà thời hậu Lê. Công trình không vươn theo trục dọc (chiều cao) mà phát triển theo trục ngang (chiều rộng) nên có dáng thấp với mái ngói uốn cong mềm mại.

Kiến trúc thực hiện theo kiểu: Bẩy, kẻ, trụ non, câu đầu - là thứ kiến trúc tiêu biểu của thế kỷ 17. Khu vực thứ hai là chùa Lương bao gồm nhà tổ “Quan âm các”, nhà khách, tăng phòng, nhà trọ, nhà bếp… bao gồm 49 gian lớn, nhỏ cũng xây dựng theo phong cách kiến trúc cổ. Phía Bắc chùa có hàng chục tháp mộ.

Tổng thể kiến trúc chùa Lương, đặc biệt ở khu vực chính đã thể hiện trình độ điêu luyện, khiếu thẩm mỹ tinh tế của những nghệ nhân dân gian. Tài nghệ ấy biểu lộ trên nhiều khía cạnh, đó là việc tạo nên bộ khung đảm bảo sự chắc chắn, độ bền vững qua nhiều thế kỷ mà vẫn nhẹ nhàng thanh thoát. Kỹ thuật ráp mộng ở trình độ cao làm cho kiến trúc liên kết khăng khít.

Các đầu đao, con kìm, trụ, đấu, con giường, bắp quả, cách gia công đường hoành, lá mái, soi chỉ, các góc, các vì của toà tiền đường tập trung chạm khắc hình tượng rồng phong phú với nhiều tư thế: Rồng chầu mặt nguyệt, rồng cuốn thuỷ, rồng vuốt râu, rồng ngậm ngọc, rồng bay, rồng cùng ngựa chim cá vui đùa.

chua-tram-gian-nam-dinh-ngam-cau-ngoi-co-uong-nuoc-coi-da-2-4610.jpg
Chùa Lương được xây dựng đủ trăm gian.

Cối đá xếp thành giếng ngọc

Du khách đến tham quan chùa Lương còn ấn tượng với giếng ngọc nơi đây bởi sự độc đáo. Giếng được xây dựng từ những chiếc cối đá xếp theo một vòng tròn lớn chồng lên nhau nhìn rất ấn tượng. Nước giếng trong vắt, mát lạnh và hay được nhà chùa dùng để đồ xôi, sửa lễ cúng Phật.

Cho đến nay hầu như không ai biết giếng ngọc có từ bao giờ, chỉ biết giếng còn có tên là “giếng mắt rồng” do chùa xây trên đầu rồng ở một vùng đất long. Theo phong thủy, thì giếng chính là mắt của rồng. Đuôi rồng kéo dài xuống tận chùa Tĩnh chia thành 9 cửa đổ ra biển.

Theo quan sát, nước giếng ngọc khá trong và mát, nhiều Phật tử và du khách thập phương thường lấy nước giếng về sử dụng theo niềm tin riêng của họ. Tuy nhiên đến nay, không ai biết chính xác thời gian xuất hiện chiếc giếng này, hoặc cũng có thể theo lo-gic của các ngôi chùa xưa - thường khi xây chùa là đào giếng.

Cũng tại Hải Hậu, tại chùa Kim Đê (Phúc Hải tự), thuộc xã Hải Minh còn giếng nước từ thời Hậu Lê, được tôn tạo vào thời Nguyễn, có hành lang hình bát giác rất đẹp. Mặt giếng gồm 10 phiến đá hình thang to, nhỏ không đều ghép làm miệng. Các lớp cối đá thành giếng hoà với lớp đá hình thang có soi nhấn chỉ ở mặt giếng thể hiện sự công phu, kỳ công kiến tạo của nghệ nhân xưa.

Từ xa xưa giếng nước còn là không gian sinh hoạt văn hóa chung của làng. Nơi đây, chuyện của làng trên xóm dưới được người dân chia sẻ qua các hoạt động thường nhật như gánh nước, giặt giũ ở giếng làng. Giếng còn mang ý nghĩa tâm linh vì là “long mạch” của làng. Bởi vậy, giếng còn gọi là “tỉnh” được xếp hàng đầu trong ngũ tự gia đường (gồm Táo: bếp, Tỉnh: giếng, Môn: cổng, Hộ: cửa và Trung lưu).

Trong tổng thể cấu trúc tâm linh ở làng quê, nếu cây đa có thần, chùa có Phật, thì giếng nước có thủy thần. Ở các di tích, cây đa vươn lên trời tượng trưng cho tính dương, giếng nước sâu vào đất tượng trưng cho tính âm tạo nên sự hài hòa âm dương trong vũ trụ.

Sự độc đáo của giếng ngọc chùa Lương, ngoài thành vách được tạo thành từ hàng trăm cối đá thì chính là giá trị của nước giếng và những câu chuyện tâm linh huyền bí, khiến người đời không dám xâm phạm.

Nếu như chùa Trăm Gian ở Hà Nội nổi tiếng với các bức phù điêu cổ, thì chùa Trăm Gian xã Hải Anh lại có bộ tượng Phật được đặt trên hệ thống cầu sàn, tạo dáng sinh động gần gũi với đời thường.

Các pho tượng có kích thước lớn như A Di Đà, tứ vị Bồ tát, Bát vị kim cang, hộ pháp càng thể hiện đậm nét phong cách và tài hoa nghệ thuật. Ngoài tượng Phật có giá trị nghệ thuật còn phải kể đến 3 pho tượng Tam thánh, tượng ông tổ khai sáng, các khám thờ, tượng thờ nguyên bản thuở xưa.

chua-tram-gian-nam-dinh-ngam-cau-ngoi-co-uong-nuoc-coi-da-1-841.png
Giếng ngọc được xếp từ hàng trăm cối đá.

Kiệt tác xứ Sơn Nam Hạ

Cách chùa không xa chính là cây cầu ngói huyền thoại của vùng Quần Anh - cầu ngói chợ Lương. Cũng như tên chùa Lương được đặt do cạnh chợ Lương, cầu ngói được thêm tên chợ Lương để đánh dấu một địa danh quần tụ những kỳ quan mà người xưa đã tạo dựng. Cầu ấy không chỉ phục vụ đi lại mà còn là một công trình kiến trúc đặc sắc nhất của trấn Sơn Nam Hạ xưa mà câu ca còn nhắc: Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài.

Cùng niên đại xây dựng với chùa Lương, cầu ngói chợ Lương là một trong số 10 cây cầu cổ nhất tổng Quần Anh xưa. Ngày nay, cầu ngói chợ Lương là một trong 3 cây cầu ngói cổ và đẹp nhất Việt Nam, cùng cầu ngói Thanh Toàn (Huế) và chùa Cầu - biểu tượng phố cổ Hội An (Quảng Nam).

Theo các cao niên địa phương, xã Hải Anh xưa thuộc Quần Phương xã, chia làm 10 giáp, từ giáp nhất đến giáp 9 chỉ dựng cầu bằng đá, kiến trúc đơn giản. Giáp thứ mười ở gần chùa, gần chợ, là chốn đô hội của tổng Quần Anh thì dựng cầu ngói.

Theo như câu đối ghi trên cổng cầu thì ngay từ những ngày vùng đất này được khẩn hoang, các cụ đã tiến hành xây dựng cầu: Lê Hồng Thuận tứ tính thuỷ mưu giá ốc biệt thành giang thượng lộ/ Hoàng Khải Định thất niên trùng tấp dư lương y cựu kính trung đề (Đời Hồng Thuận 1509 - 1515, bốn họ tính kế dựng nhà trên cầu thành đường trên nước/ Đời Khải Định thứ bảy (1922) tu sửa như cũ, từng bậc xếp nên gương).

Nếu lấy thời điểm năm 1515 dựng cầu thì đến nay, cây cầu đã trên 500 năm có lẻ. Trải qua ngần ấy thời gian, cầu ngói vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu. Cầu được dựng trên 18 cột đá vuông xếp thành 6 hàng để gánh 6 vì và đỡ toàn bộ 9 gian nhà cầu. Trên các cột đá cắm sâu xuống lòng sông là hệ thống xà ngang, xà dọc bằng gỗ lim đỡ các dầm và nâng sàn cầu, nhà cầu.

Sàn cầu được thiết kế làm hai phần, phần sàn của lòng cầu rộng 2m, gồm 66 thanh gỗ lim ghép lại nằm trên hàng dầm uốn cong, đồng thời có nhiều thanh gỗ ngắn hơn vuốt tròn cạnh tạo thành nhiều gờ nổi. Hai bên là hai dãy hành lang - nơi khách bộ hành có thể dừng chân ngồi nghỉ ngơi ngắm cảnh sông nước. Phía trong hành lang cũng được ghép ván, phía ngoài là lan can với các đố thượng, đố hạ và 162 con song.

chua-tram-gian-nam-dinh-ngam-cau-ngoi-co-uong-nuoc-coi-da-3-2728.jpg
Cầu ngói chợ Lương xây dựng cùng thời với chùa.
chua-tram-gian-nam-dinh-ngam-cau-ngoi-co-uong-nuoc-coi-da-4-8404.jpg
Phía bên trong cầu Lương.

Để tạo thành 9 gian nhà cầu phải cần 10 vì xà cột, hệ thống xà dầm nâng có 40 cột cái, cột quân và cấu kiện chủ lực của nhà cầu. Các vì kèo, 36 xà dọc, thượng lương, xà ngang, xà máng trên, máng dưới, hệ thống hoành rui đều được gia công tỉ mỉ khiến bộ khung vừa cong, vừa uốn lượn, khít xà ăn mộng.

Mái ngói nam được lợp rất khéo không bị xô, bị hở. Người thợ tài hoa xưa đã đạt yêu cầu này nhờ sáng tạo ra kỹ thuật nửa lợp, nửa xây làm cho dáng mái rất đẹp tựa con rồng đang bay. Tuy các mảng trạm khắc không nhiều và có phần đơn giản chỉ bằng các hàng soi, đường chỉ ở các vì kèo, các con bảy, hàng xà, ván bưng tạo hình con bướm. Đầu con song tạo dáng lá đề cũng thể hiện tài hoa của người thợ mộc, thợ ngõa đất Quần Anh.

Đáng chú ý nhất là hình tượng cuốn thư trên hàng trụ, dưới là cửa cuốn. Cuốn thư tạo dáng mềm, lại đề 4 chữ “Quần Phương xã kiều”, tức cầu xã Quần Phương. Mỗi đầu cầu đều có 4 con nghê chầu, dáng vẻ vừa thân thuộc vừa lộ vẻ uy nghiêm, ý nghĩa ấy được dân gian hé mở trong câu: Bốn con nghê đực chầu về tổ tông.

Bên cạnh đó là hệ thống câu đối thể hiện tài chữ nghĩa, văn chương của người xưa: Hoàng lộ phong thanh quá thử kỷ đa đề trụ khách/ Giang thành dạ tĩnh du phương ứng hữu thu thư tiên (Trên đường gió mát nhiều khách qua đây lưu lại văn thơ ca ngợi/ Đi trên cầu trong đêm vắng như có nhận được sách tiên).

Cụ Trần Phúc Khiêm, nho sĩ thời Nguyễn, người xã Quần Anh cũng để lại câu vịnh về cầu ngói: Ba ngả dòng sông ngói lợp cầu/ Công lao từ trước một mai đâu/ Quần Anh non nước xem như vẽ/ Đề cột nhà thơ cảm hứng sâu.

Cầu ngói và chùa Lương được Nhà nước cấp bằng công nhận di tích cấp quốc gia vào năm 1990. Quần thể di tích này đã và đang thu hút đông đảo khách tham quan, trở thành điểm “check-in” của giới trẻ. Hiện chùa Lương vẫn bảo lưu được câu đối cổ khắc vẽ công phu, nội dung phản ánh lòng tự hào của người Quần Anh xưa, trong đó có câu: “Khí sĩ thứ khâm sùng, bất tự Hán - Minh đế thuỷ/Dữ kiền khôn trường tại, khởi ư Đường Hiến tôn chung” (Khởi sự sùng kính không phải từ thời Hán - Minh bắt đầu/ Cùng đất trời còn mãi, há phải đến thời Đường Hiến Tôn là hết).

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ