Lựa chọn các trò chơi dân gian phù hợp
Kho tàng các trò chơi dân gian Việt Nam vô cùng phong phú và đa dạng nhưng không phải trò chơi nào cũng phù hợp với trẻ nhỏ. Vì thế, giáo viên nên có sự cân nhắc lựa chọncho trẻ chơi các trò chơi có luật chơi và cách chơi đơn giản, dễ nhớ, dễ hiểu.
Bên cạnh đó, trong trường mầm non lại có sự phân chia trẻ theo nhiều độ tuổi. Mỗi độ tuổi lại có mức độ nhận thức và khả năng chú ý có chủ định khác nhau. Chính vì thế, các trò chơi cũng cần phải được lựa chọn cho phù hợp với từng độ tuổi.Cụ thể như sau:
Với trẻ lứa tuổi nhà trẻ và mẫu giáo bé ( từ 2 - 4 tuổi ): Khả năng chú ý có chủ định còn kém, nhận thức còn đơn giản. Vì vậy trẻ chỉ có thể chơi được các trò chơi đơn giản như: “ Lộn cầu vồng”,“ Chi chi chành chành”, “ Tập tầm vông”, “ Nu na nu nống”, “ Dung dăng dung dẻ”…
Với trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn (từ 4 - 6 tuổi ): Khả năng chú ý có chủ định và nhận thức của trẻ đã cao hơn rất nhiều so với lứa tuổi trước. Vì thế, trẻ có thể chơi được các trò chơi dài hơn và khó hơn.
Khi lựa chọn các trò chơi dân gian cho trẻ mẫu giáo, giáo viên thực hiện theo các tiêu chí sau:
- Trò chơi không quá đơn giản nhưng cũng không quá phức tạp.
- Đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi dễ kiếm, dễ tìm.
- Giúp củng cố tư duy, ngôn ngữ, vận động, kỹ năng cho trẻ.
- Gây được hứng thú, thu hút sự chú ý của trẻ.
- Có sự tham gia của tập thể lớp hoặc nhóm trẻ trong lớp.
Từ những tiêu chí trên, có các trò chơi sau cho trẻ mẫu giáo : “ Thả đỉa ba ba”, “ Ô ăn quan”, “ Chuyền thẻ”, “ Hát chuyền sỏi”, “ Trốn tìm”, “ Đếm sao”, “ Kéo co”, “ Rồng rắn lên mây”, “Chồng đống chồng đe”, “ Trồng nụ trồng hoa”, “ Ném còn”, “ Cướp cờ” …
Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi
Đồ dùng đồ chơi của các trò chơi dân gian cũng vô cùng đa dạng và phong phú, mang tính đặc trưng và được thiết kế dựa vào cách chơi và luật chơi của từng trò chơi. Mỗi trò chơi dân gian có một hoặc nhiều loại đồ dùng đồ chơi tương ứng mà thiếu nó thì trò chơi không thể tiến hành được.
Ví dụ như trò: “ Chơi chuyền” đòi hỏi phải có 10 que chuyền và một đồ vật có dạng khối cầu như quả bóng, quả bưởi non…Trò chơi “ Ném còn” không thể diễn ra nếu thiếu quả còn – đồ chơi truyền thống của trò chơi đó. Hay đơn giản như trò chơi “ Bịt mắt bắt dê” cũng không thể được tổ chức nếu không có dải vải hoặc dải khăn bịt mắt…
Chính vì vậy, trước khi tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi dân gian nào đó, giáo viên cần tìm hiểu kỹ lưỡng về luật chơi, cách chơi cũng như việc có hay không có đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trò chơi để từ đó có thể chuẩn bị đầy đủ các yếu tố cần thiết cho trò chơi.
Dạy trẻ đọc thuộc lời ca ( đối với những trò chơi có lời đồng dao )
Một đặc điểm đặc trưng của trò chơi dân gian đó là khi chơi trẻ không bao giờ chỉ hùng hục thực hiện các vận động của mình mà chúng thường vừa chơi vừa hát hoặc đọc lời đồng dao nào đó. Các bài đồng dao đó khiến cho không khí chơi vui vẻ, nhộn nhịp hơn.
Mặc dù không phải bài đồng dao nào cũng có ý nghĩa, song bài nào cũng phù hợp với tư duy hồn nhiên của trẻ. Ví dụ như: chơi “ Chi chi chành chành”, trẻ hát “ Chi chi chành chành – Cái đanh thổi lửa – Con ngựa chết trương – Tam vương ngũ đế…”.
Câu hát dường như chẳng có mạch ý nào rõ ràng, nhưng thiếu nó thì trò chơi không thể tiến hành. Hay như chơi “ Rải ranh” trẻ hát “ Rải ranh – Bẻ cành – Hái ngọn – Chọn đôi”.
Cùng với lời hát trong trẻo là bàn tay rải những viên sỏi một cách khéo léo, tung viên cái lên, nhặt một hoặc hai viên con dưới đất, rồi lại giơ tay đỡ viên cái vừa rơi xuống.
Trò chơi chỉ có thể được tổ chức khi trẻ đã thuộc lời đồng dao. Chính vì vậy, giáo viên cần cho trẻ làm quen với lời đồng dao của các trò chơi dân gian trước khi hướng dẫn trẻ chơi vào các thời điểm trong ngày của trẻ như: hoạt động chiều, hoạt động ngoài trời…
Khi trẻ đã thuộc lời đồng dao, tôi tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi tương ứng với lời đồng dao đó. Vì thế, trẻ chơi rất hứng thú và tích cực tham gia chơi.
Chuẩn bị địa điểm để tổ chức trò chơi
Mỗi trò chơi dân gian có một cách chơi và luật chơi khác nhau. Có những trò chơi vận động mang tính tập thể rất cao, thường có số lượng người tham gia chơi lớn và đòi hỏi địa điểm chơi phải có diện tích rộng như “Kéo co”, “Rồng rắn lên mây”, “Thả đỉa ba ba”, “Trồng nụ trồng hoa”…
Nhưng lại cũng có những trò chơi tĩnh, trẻ hay chơi theo các nhóm nhỏ như “Chi chi chành chành”, “Tập tầm vông”, “Rải ranh”, “Chuyền thẻ”, “Ô ăn quan”…
Chính vì vậy, giáo viên cần nắm vững cách chơi, luật chơi, đặc điểm của từng trò chơi để từ đó lựa chọn địa điểm cho phù hợp trước khi tổ chức cho trẻ chơi.
Tổ chức các trò chơi phù hợp với tính chất của hoạt động
Mỗi hoạt động của trẻ đều nhằm đạt được một mục đích nhất định. Vì thế, hoạt động nào cũng có tính chất riêng của nó.
Nếu như hoạt động chung được tổ chức nhằm cung cấp các kiến thức cho trẻ thì hoạt động ngoài trời lại giúp trẻ được gần gũi với thiên nhiên, khám phá các hiện tượng tự nhiên và phát triển thể chất; hay như ở hoạt động góc trẻ lại được mở rộng thêm về kinh nghiệm sống và kỹ năng chơi theo nhóm.
Chính vì vậy, giáo viên cần chú ý lựa chọn và tổ chức các trò chơi dân gian cho phù hợp với tính chất của từng hoạt động.
Với hoạt động ngoài trời: Tận dụng không gian rộng và thoáng, giáo viên nên tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi vận động nhằm rèn luyện và phát triển thể lực cho trẻ như: “Rồng rắn lên mây”, “Bịt mắt bắt dê”, “Nhảy dây”, “Nhảy lò cò”, “Thả đỉa ba ba”…
Với hoạt động góc: Nên tổ chức cho trẻ các trò chơi có thể chơi theo nhóm nhỏ trong một không gian hẹp như: “Ô ăn quan”, “Chơi chuyền”, “Rải ranh”, “Chuyền thẻ”, “Kéo cưa lửa xẻ”…
Với hoạt động chung và hoạt động chiều (chủ yếu diễn ra trong phòng nhóm ): Nên tổ chức cho trẻ các trò chơi tĩnh nhằm phát triển nhận thức cho trẻ như: “Ô ăn quan”, “Tập tầm vông”, “Rải ranh”, “Chơi chuyền”, “Chơi cờ”, “Vấn đáp”, “Đếm sao”, “ Đọc câu”…
Đặc biệt khi tích hợp trò chơi dân gian trong hoạt động chung, giáo viên cần lựa chọn trò chơi phù hợp với đặc điểm của từng hoạt động cụ thể. Ví dụ:
Với hoạt động giáo dục thể chất: Nên lựa chọn các trò chơi vận động nhằm rèn luyện thân thể khoẻ mạnh, hoạt bát và năng động. Nhiều trò chơi đòi hỏi trẻ phải mạnh mẽ, nhanh chân, nhanh mắt, nhanh miệng. Trẻ phải có sức khỏe mới có thể vui chơi và ngược lại vui chơi giúp cho trẻ thêm khỏe mạnh và năng động.
Chẳng hạn: Với trò chơi “ Rồng rắn lên mây”, khi trẻ hát xong câu cuối: “Xin khúc đuôi – Tha hồ thày đuổi”, lập tức trẻ làm “ đuôi” (đứng sau cùng) phải chạy thật nhanh, nếu không sẽ bị “ thầy” tóm lấy, sau đó có thể bị thay người khác hoặc lại phải làm “thầy” để đi đuổi những trẻ khác.
Trò “ Nhảy dây”, “ Trồng nụ trồng hoa”, “ Nhảy lò cò” có nhiều nấc chơi nho nhỏ: từ bàn một, bàn hai…đến bàn mười (Nhảy lò cò ); từ một nụ, một hoa…đến tám hoa (Trồng nụ trồng hoa )… Trẻ phải vượt qua dần từng nấc, hết nấc này mới đi tiếp nấc sau. Như vậy, trẻ phải dai sức, khỏe mạnh, nhanh nhẹn và khéo léo mới có thể tiến dần đến được nấc cuối của trò chơi.
Trò “Chi chi chành chành” lại buộc trẻ phải rất nhanh tay, nhanh miệng vì nếu câu cuối bài là “ ù à ù ập” được đọc xong mà trẻ không rút kịp tay ra, ngón tay của nó sẽ bị giữ lại, như thế là thua.
Với hoạt động khám pháp khoa hoạc, toán, văn học khi lựa chọn các trò chơi cần đáp ứng được các tiêu chí sau: Nhằm phát triển nhận thức cho trẻ; Phát triển ngôn ngữ; Cung cấp cho trẻ các kỹ năng như: kỹ năng hoạt động theo nhóm, kỹ năng sử dụng đồ dùng đồ chơi…; Rèn luyện trí nhớ và khả năng tư duy cho trẻ.
Ví dụ:
Lời đồng dao của trò chơi chuyền: “ Con ruồi có cánh - Đòn gánh có mấu - Châu chấu có chân…” đã giúp trẻ nhận biết được đặc điểm đặc trưng của một số con vật và đồ vật quen thuộc.
Những câu hát ngược có tính chất đánh lừa nhận thức, thử thách sự năng động của trí tuệ, khiến trẻ muốn hiểu đúng sự vật thì phải chuyển ngược lại: “Non cao đầy nước/ Đáy biển đầy mây/ Dưới đất lắm mây/ Trên trời lắm cỏ/ Người thì có mỏ/ Chim thì có mồm…”
“Chuyền thẻ” là một trò chơi dân gian dạy trẻ làm toán cộng hay trừ. Đó là bài tập đếm từ 1 đến 10 của trẻ.
Trẻ nhóm các nhóm theo trật tự cao dần lên và cộng lại trong phạm vi 10: bắt đầu từ bàn một “cái mốt, cái mai, cái trai, cái hến…” sau đó là nhóm đôi và các nhóm cao hơn “ đôi tôi, đôi chị…”, “ba lá đa, ba lá đề…”, “tám quả trám, hai lên chín”…Bài tập đó có thể giúp trẻ đếm thành thạo trong phạm vi 10.
Với hoạt động âm nhạc nên chọn các trò chơi có giai điệu và lời hát như các trò chơi: “ Tập tầm vông” , “ Hát chuyền sỏi”, “Đồng dao chăn trâu xứ Quảng”…
Ngoài ra khi lựa chọn các trò chơi dân gian trong hoạt động chung, một điều cần đặc biệt lưu ý đó là: phải lựa chọ trò chơi phù hợp với đề tài và chủ điểm của bài dạy.
Chẳng hạn như:
Chủ đề “Thế giới động vật” có thể tổ chức các trò chơi: “Đồng dao hỏi tuổi xứ Quảng”, “Đồng dao chăn trâu xứ Quảng”, “ Bịt mắt bắt dê”, “ Phụ đồng ếch”, “ Thi tìm những con vật có từ láy”…
Chủ đề “ Thế giới thực vật” có thể cho trẻ chơi các trò chơi: “ Trồng nụ trồng hoa”, “ Mít mật mít gai”, “ Làm nón mão bằng lá”…
Chủ đề “ Tết và mùa xuân” là thời điểm thích hợp để giới thiệu cho trẻ các trò chơi truyền thống của dân tộc trong dịp lễ Tết như “ Ném còn”, “ Cướp cờ”, “ Bịt mắt đập niêu”, “ Đẩy gậy”, “ Chơi đu”,“ Múa lân”…
Động viên tất cả các trẻ tham gia vào trò chơi
Một ưu thế của trò chơi dân gian chính là ở chỗ nó có thể dung nạp tất cả những ai muốn chơi. Không bao giờ trò chơi dân gian quy định số người chơi nhất định.
Vì vậy tôi luôn khuyến khích, động viên tất cả các trẻ tham gia chơi càng đông càng vui. Nếu chơi “ Bịt mắt bắt dê”, mỗi khi có một người vào thêm, vòng chỉ rộng ra một chút chứ trò chơi không thay đổi.
Còn trò chơi “ Rồng rắn lên mây” thì thêm một người, “ cái đuôi” sẽ dài ra một chút và tất cả mọi người đều được chơi, được chạy như nhau. Những trò chơi “ Thả đỉa ba ba”, “ Chi chi chành chành”, “ Nhảy lò cò”, “Nhảy dây”… cũng tương tự như vậy.Trong khi chơi, mọi trẻ đều bình đẳng như nhau.
Nếu trẻ nào ích kỷ, chơi không đúng luật chơi, chen lấn các bạn khác sẽ bị tập thể phê phán, loại trừ bằng cách không cho chơi chung. Qua đó tinh thần tập thể của các trẻ được nâng lên rất nhiều.
Hy vọng một số kinh nghiệm này sẽ giúp các đồng nghiệp đem lại hiệu quả khi tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ trong trường Mầm non. Mong muốn nhận được những chia sẻ, trao đổi của các đồng nghiệp.