Ký ức của những người thân về Hàn Mặc Tử (Kỳ cuối)

GD&TĐ - Những năm 1938-1939, tôi nghe nói chị đến thăm anh Trí tại nhà, lúc bấy giờ đã dọn về đường Odend’hall vì anh bắt đầu đau nặng, mà mẹ tôi không muốn cho ai biết. Việc chị Mai Đình đến thăm anh Trí như một tin sốt dẻo được loan đi rất nhanh trong những người bạn thân. Vì thế đã làm ồn ào lên một dạo mà mẹ tôi lo sợ tai tiếng cho chị.

Mộ của Hàn Mặc Tử ngày nay ở Quy Nhơn
Mộ của Hàn Mặc Tử ngày nay ở Quy Nhơn

Thế nhưng, sự dè dặt đó không cần thiết gì đối với chị. Chị Như Lễ nói với tôi: “Chị Mai Đình do ông Tấn giới thiệu cho anh Trí kết bạn thơ.”

Theo chỗ tôi biết qua bạn bè anh Trí, thì chị Mai Đình đã ham mê thơ anh từ lâu, nhưng không ai giới thiệu. Đến khi gặp anh thì lại yêu luôn anh, mặc dầu thấy tận mắt anh đang bệnh.

Thật sự thì bệnh anh cũng không có vẻ gì đáng sợ, nếu nhìn về bên ngoài.

Năm 1939, anh đau nặng nhất, thì cũng chỉ là dấu hiệu khô chết lớp da bên ngoài. Tay anh cầm muỗng ăn hay viết lách, chỉ khó khăn khi kéo mấy ngón tay co lại. Bàn tay như mang một chiếc găng da khô cứng. Da dẻ đen sạm đi không lở lói gì.

Với chị Mai Đình, thì hình như chị cũng không thấy “cái bên ngoài” đó nữa, mà chỉ cần nghe anh ngâm thơ, chỉ cần ở gần bên anh.

Nhiều người bạn, nói theo thời bấy giờ là chị Mai Đình bị tiếng sét ái tình đánh gục (Coup de foudre). Người đàn bà đã từng phen lưu lạc phong trần mà thơ viết lên nghe như cô gái mới được yêu.

Nghe nói chị vẫn dạy nữ công cho nhiều trường ở Saigon, nhưng thỉnh thoảng lại động lòng bốn phương, tìm bạn bè ngâm thơ vịnh nguyệt. Mai Đình viết cho Hàn Mặc Tử lá thơ nũng nịu đủ thứ khiến anh Trí buồn cười đem xếp lại thành bài thơ dưới đây…

… Thôi em chán quá, em buồn quá

Anh của em giờ cười với ai

Với những gì đâu tức tối lạ

Em hồ nghi mãi giận không thôi…

Nhưng xa xôi quá biết làm sao

Lấy Trí tương tư đo được nào

Em mới vùng vằng em thở dốc

Tình thương trong dạ cứ xôn xao.

Ông Phạm Hành
Ông Phạm Hành

Năm 1939, tôi về thăm nhà, nghe chị có ghé lại ở chơi mấy ngày.

Trong nhà, hình như ai cũng yêu mến chị, vì chị đơn sơ thành thật, không nề hà khách sáo, có lẽ cuộc đời “phiếm thủy đào hoa” của chị nhiều trôi nổi quá, nên sống cách nào cũng được, không thấy khó khăn gì, nên ai cũng thương…”.

Mối tình thứ tư của Hàn Mặc Tử là với Thương Thương, nàng như một nàng tiên xuất hiện mơ hồ trong mộng và thực của nhà thơ (Thương Thương nàng chỉ là một cái tên mà Trần Thanh Địch, bạn thân của nhà thơ bắt gặp đâu đó giữa mây trời để giới thiệu với Hàn Mặc Tử). Mối tình kỳ diệu với Thương Thương đã làm cho thơ Hàn Mặc Tử trong tập Duyên kỳ ngộ trở thành bất hủ…

Ngày tháng cứ dần trôi, bệnh tình của nhà thơ mỗi lúc càng thêm bi đát, và rồi căn nhà nằm bên con đường Khải Định ở thành phố Quy Nhơn cũng không đủ sức để níu giữ thân phận nghiệt ngã của nhà thơ. Thời đó, quan niệm của người đời về bệnh phong là kinh khủng lắm, nên gia đình đành phải thuê một căn nhà nhỏ nằm ven bãi biển Gềnh Ráng, cạnh một cái đồn lính Tây của hai chị em người đàn bà góa để cho nhà thơ trú ngụ.

Ông Hành cũng khăn gói đi theo để phục dịch anh mình, tiếng thì đi ở riêng nhưng cơm nước hằng ngày ông Hành vẫn về nhà mang đến. Ông Hành cứ nhớ mãi, hồi đó anh Trí chỉ thích ăn cơm với cá liệt kho khô (cá liệt hồi đó con mô cũng to bằng bàn tay chứ không nhỏ như bây chừ-ông Hành nhấn mạnh) vì loài cá này không độc. Lâu lâu anh Trí mới được ăn một bữa thịt, vì mẹ của anh cho rằng bệnh phong rất kỵ với hơi của thịt mỡ.

Hai anh em ở trong cái nhà thuê lụp xụp bên mé biển đó được chừng 5 tháng thì bệnh nặng ra. Hàn Mặc Tử được đưa đi cấp cứu ở Bệnh viện Quy Nhơn, nằm được vài hôm, đến ngày 20-9-1940 thì hai anh em phải dắt díu nhau đến trú ngụ ở Bệnh viện phong Quy Hòa. Ở đó, thời bấy giờ được xem là nơi tột cùng của đau khổ nhân gian…

Ông Hành nhớ rất rõ rằng: Khi vào Bệnh viện phong Quy Hòa, tay của anh Trí đã hơi cứng nên viết lách rất khó khăn, trên mặt thì nổi nhiều mụn đỏ mọng như sắp nứt. Khi mới đến, anh Trí được phát bộ áo quần bệnh viện, mang số 1134 và xếp cho nằm trong phòng tập thể. Sau đó một thời gian thì được xếp nằm riêng một mình. Theo ký ức của ông Hành thì từ khi được xếp ra ở riêng được chưa đến chục ngày thì anh Trí trút hơi thở cuối cùng, từ giã cõi dương gian để về với Chúa.

Chiều ngày 11-11-1940, khi ông Hành đạp xe từ Quy Nhơn lên tới Quy Hòa, trên tay vẫn đang cầm gói thức ăn cho anh Trí thì những người ở bệnh viện đã khâm liệm xong xuôi. Ông Hành nghẹn ngào kể lại: “Tui vẫn còn nhớ như in ngày mới vô Quy Hòa anh Trí cứ dặn dò “em nhớ đừng nhổ nước miếng xuống nền nhà nghe chưa, nếu em nhổ là anh bị phạt ăn cơm lạt và nhổ cỏ đó”. Để hâm nóng pho ký ức về Hàn Mặc Tử của ông Hành, tôi phải kéo dòng hồi tưởng trong ông chầm chậm lại.

“Bây giờ ông có còn thuộc thơ của anh Trí viết không?”. “Có chớ, hồi trai trẻ thì thuộc nhiều, chừ già rồi cũng quên hết...”, nói xong ông ngồi ngâm khe khẽ: “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ đợi gió đông về để lả lơi/ Hoa lá ngây tình không muốn động/ Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi/ Trong khóm vi lau rào rạt mãi/ Tiếng lòng ai nói? sao im đi?/ Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe”.

Mấy mươi năm đã qua đi, buổi chiều này ngồi để nhắc nhớ lại chuyện của người thiên cổ, ký ức về người anh tài hoa mệnh bạc cứ như đong đầy, nặng trĩu làm cho ông Hành vốn đã già yếu lại càng già đi. Gió heo may rườn rượt kéo về cùng với những cơn rét đậm, linh cảm cho tôi biết dường như thời gian không còn nhiều nữa cho pho ký ức sống về Hàn Mặc Tử hiếm hoi này.

Chia tay tôi trong cái buổi chiều trời mưa lất phất, ông Hành còn nhắc: “Mai về Đà Nẵng, cậu cố gắng tìm đến Thánh viện Phao Lồ, nằm trên đường Yên Bái, ở đó có bà Công Tằng Tôn Nữ Phương Khanh là con gái của chị Lễ và là cháu gọi nhà thơ Hàn Mặc Tử bằng cậu ruột. May ra người này có biết thêm một chút gì về những ngày tháng cuối cùng của anh Trí...”.

Về Đà Nẵng, tôi đã tìm gặp bà Phương Khanh, hiện đang là nữ tu ở thánh viện Phao Lồ, nhưng bà Khanh bảo rằng: “Khi cậu Trí mất tôi cũng còn nhỏ lắm, lớn lên thì vào tu trong dòng, chỉ nghe mẹ tôi kể lại rằng ngày đó, gia đình bà ngoại tôi đã chạy đôn chạy đáo khắp nơi để tìm phương cứu chữa cho cậu Trí, nghe ai bảo làm gì cũng làm, kể cả việc mài vàng ròng cho cậu Trí uống. Có lẽ vì cậu Trí được cho uống quá nhiều bột vàng ròng nên sinh ra bị bệnh đường ruột. Theo bà Phương Khanh thì Hàn Mặc Tử qua đời là vì bệnh đường ruột (bệnh kiết lỵ) chứ không phải thủ phạm đã cướp đi sinh mạng của nhà thơ tài hoa nước Việt là trực khuẩn Han sen!?

Nhận định về nguyên nhân dẫn đến cái chết của người cậu ruột tài hoa đoản mệnh của bà Phương Khanh xem ra rất có lý khi đem đối chiếu với những tư liệu mà người bạn cùng nằm bệnh viện phong Quy Hòa với Hàn Mặc Tử là ông Nguyễn Văn Xê đã kể lại trong hồi ký của mình và đã được trích đăng trên Tạp chí Sông Hương số 28, ra ngày 11-12-1987 như sau: Ngày 20-9-1940, có tiếng phanh xe ôtô trước Nhà thương nam làm bệnh nhân người nhìn qua cửa sổ, kẻ lẹ chân chạy ra gần chiếc xe. Mẹ Juetta lẹ làng chạy ra cửa tiếp hồ sơ nơi tay bác y tá đứng tuổi rồi đỡ bệnh nhân xuống. Đến giường số 3, mẹ dừng lại, nhìn hồ sơ và nhẹ nhàng nói: “Trí, đây là chỗ của con”.

15 giờ chiều hôm ấy, ông Xê bắt chuyện với Hàn Mặc Tử: “Tôi là Xê, người Huế, vào trại đã hai năm, hiện đang giúp việc cho các mẹ. Tôi còn nhỏ lắm, mới 21 tuổi thôi, xin anh Trí hãy gọi bằng em cho thân mật”. Hàn Mặc Tử lắc đầu: “Anh Xê đừng quan tâm chuyện tuổi tác, tôi cũng mới hai mươi tám”. Hàn Mặc Tử nói với ông Nguyễn Văn Xê: “Khắp các tiệm thuốc bắc và các ông bà thầy thuốc nam ở Bình Định tôi đến chữa không sót một người, mà càng ngày thân thể ra thế này”.

Hàn Mặc Tử vào Quy Hòa được ba tuần. Nhờ sự chăm sóc chu đáo, tận tụy của các nữ tu dòng thánh François Dassise, mà đặc biệt là mẹ Juetta phụ trách Nhà thương nam là người lo lắng cho Hàn Mặc Tử nhất nên bệnh tình thuyên giảm rõ rệt.

Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt của ông đều đều: 5 giờ sáng dậy đi nhà thờ đọc kinh và rất sốt sắng chầu lễ, rước lễ; 7giờ cùng anh em bệnh nhân ăn điểm tâm cháo trắng với đường đen; 8giờ băng bó, uống thuốc hoặc chuyện trò với anh em đồng bệnh; 11giờ ăn cơm trưa rồi nghỉ ngơi; 14giờ 30 đi nhà thờ đọc kinh lần hạt; đến 17giờ đi ăn cơm chiều.

Sang tuần thứ năm, Hàn Mặc Tử được mẹ Juetta chích thuốc trị bệnh thời đó do bác sĩ Gour vile, Giám đốc Bệnh viện Quy Nhơn bào chế với tên Huile de Cholmoogra để chích ven mỗi lần 1/2cc cộng với thuốc trị công phạt ác tính là Essene Teberentine nên bệnh có vẻ giảm do đó thường thấy Hàn Mặc Tử bách bộ lui tới ở hành lang Nhà thương nam hoặc ở vườn hoa ngồi suy tư trên ghế đá với tập giấy kẹp ở nách cầm cây bút chì nhỏ mòn cùn. Hàn Mặc Tử sinh hoạt bình thường cho đến vào buổi trưa 30-10-1940, sau khi đi đọc kinh lần hạt ở nhà thờ về.

Cả buổi trưa cho đến tối ngày hôm đó (30-10-1940) ông Xê bận việc đến sáng hôm sau mới hay Hàn Mặc Tử đi kiết bị kiệt sức nên không thể đến nhà thờ.

Khi ông Xê đến thăm thì thấy Hàn Mặc Tử phờ phạc, xanh xao nhiều lắm nên ông đề nghị mẹ Juetta cho ông vào trong phòng liệt nằm cho tiện. Rồi suốt hơn một tuần lễ từ 30-10 đến 7-11-1940 thì bệnh kiết lị của Hàn Mặc Tử vẫn không thuyên giảm mà có phần tăng thêm nên người ông khô đét, gầy guộc xanh xao đến thảm não. Đêm 8-11-1940, Hàn Mặc Tử đi tiêu rất nhiều lần, mỗi lần đi có một chút chất nhầy và vài giọt máu nên ông Xê thấy Hàn Mặc Tử mệt lả đến đi không nổi, ông phải dìu đi tiêu, rồi về giường nằm.

Đêm càng về khuya thì sức ông Xê càng mệt nên đã ngủ quên chắn cả lối đi, không ngờ trong lúc ấy Hàn Mặc Tử tuột xuống giường đi không nổi nên đã lấy một cái âu ngồi lên đó mà đi tiêu.

Khi ông Xê giật mình thức giấc thì thấy Hàn Mặc Tử ngồi trong xó tối sau chiếc tủ con ôm bụng nhăn nhó nói: “Anh Xê ơi, đỡ tôi lên với”. Ông Xê đến đỡ Hàn Mặc Tử lên giường nằm rồi mới nói: “Sao anh không thức tôi dậy”, thi sĩ trả lời vô cùng mệt nhọc: “Tôi thấy anh cũng mệt nên để anh nghỉ một chút”.

Sáng 9-11-1940, sau khi khám bệnh, mẹ Juetta bưng chén thuốc cho Hàn Mặc Tử uống xong nói: “Chiều nay có xe đi mời Cha Tuyên úy vào xức dầu cho con”, ông gật đầu và nói tiếng “dạ” rất nhỏ. Sáng 10-11-1940 lúc 6giờ 45, Cha cho Hàn Mặc Tử được chịu phép xức dầu và rước lễ lần cuối.

Đêm 10-11, ông Xê trực, hai mẹ Juetta và soeur Julienne có đến thăm Hàn Mặc Tử ba lần và lần thứ ba khoảng 3h thì soeur Julienne cho biết từ đó đến sáng Hàn Mặc Tử sẽ chết.

Thời gian của đêm đó như chùng xuống, ông Xê nhìn Hàn Mặc Tử ngoài những lúc đau bụng đi tiêu, thì khi quỳ cũng như ngồi hoặc nằm, Hàn Mặc Tử đều đọc kinh cho đến ngày 11-11-1940 lúc 5giờ45phút sáng thì ông nhẹ nhàng tắt thở.

Ông Phạm Hành nay đã không còn nữa, nhưng may mắn thay những gì chúng tôi ghi lại được từ ký ức của ông về người anh con bác ruột của mình, thi sĩ tài hoa Hàn Mặc Tử sẽ mãi mãi là những tư liệu vô cùng quý báu cho những ai yêu quý Hàn Mặc Tử và cho nền văn học nước nhà.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ