Không để người dân thiệt thòi vì không biết chữ

GD&TĐ - Những kinh nghiệm từ thực tiễn xóa mù chữ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Học viên tại Bon Đắk Láp nhận quà của Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc, thị trấn Đăk Mil.
Học viên tại Bon Đắk Láp nhận quà của Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc, thị trấn Đăk Mil.

Khi giáo dục cần sự vào cuộc của cả cộng đồng

Phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ (XMC) không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành Giáo dục, mà còn là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao dân trí, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, từng bước nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho người dân, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Từ thực tiễn nhiều năm trực tiếp tham gia công tác xóa mù chữ tại địa phương, cô Trần Thị Hồng Phượng, giáo viên Trường Tiểu học Bi Năng Tắc (xã Đăk Mil, Lâm Đồng), đã đúc rút nhiều kinh nghiệm thiết thực trong việc huy động, vận động người dân mù chữ, người chưa đạt chuẩn biết chữ tham gia các lớp XMC, đồng thời duy trì sĩ số và nâng cao chất lượng dạy học.

Với phương châm “Không để người dân thiệt thòi vì không biết chữ”, nhà trường và chính quyền địa phương luôn xác định việc tạo điều kiện để người dân được học chữ là nhiệm vụ lâu dài, cần sự kiên trì, linh hoạt và sự chung tay của cả hệ thống chính trị.

xoamuchu-3.png
Lớp học xóa mù chữ tại xã Đăk Mil (Lâm Đồng).

Kiên trì vận động, lấy cộng đồng làm điểm tựa

Theo cô Trần Thị Hồng Phượng, công tác vận động học viên ra lớp là khâu khó khăn nhất trong quá trình triển khai các lớp XMC. Phần lớn học viên là người dân tộc thiểu số, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, phải mưu sinh hằng ngày, tâm lý e ngại, mặc cảm vì không biết chữ, ngại tiếp xúc với chính quyền và môi trường học tập.

Xuất phát từ kết quả rà soát phổ cập giáo dục, nhà trường đã phối hợp với chính quyền địa phương, các ban, ngành, đoàn thể đến từng hộ gia đình để nắm bắt hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng. Việc vận động không chỉ do giáo viên thực hiện mà còn có sự tham gia của bon trưởng, già làng, Hội Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên và đặc biệt là những người có uy tín trong cộng đồng như chức sắc tôn giáo.

Thực tế cho thấy, có những trường hợp dù được vận động nhiều lần vẫn chưa sẵn sàng đi học. Điển hình như chị H’Djuer, ban vận động đã đến nhà nhiều lần, tặng bút, vở và một số nhu yếu phẩm cần thiết nhưng chị vẫn từ chối. Chỉ đến khi được cha đạo nhắc nhở trong buổi lễ tại nhà thờ, chị mới thay đổi suy nghĩ và tham gia lớp học đều đặn. Tương tự, trường hợp em Y Kê phải nhờ đến già làng trực tiếp vận động mới có thể ra lớp.

Những câu chuyện đó cho thấy, việc huy động người học không thể nóng vội, mà cần sự kiên trì, mềm dẻo và đặc biệt là phát huy vai trò của cộng đồng.

xoamuchu-2.jpg

Song song với công tác vận động, nhà trường và UBND xã đã chủ động liên hệ với các mạnh thường quân để hỗ trợ học viên những phần quà thiết thực. Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng kêu gọi các trường ở khu vực thuận lợi cùng chung tay đóng góp quà tặng cho học viên trong các dịp khai giảng và tổng kết lớp học.

Những phần quà tuy không lớn về giá trị vật chất nhưng mang ý nghĩa tinh thần rất lớn, giúp học viên cảm nhận được sự quan tâm, động viên và trân trọng của xã hội đối với nỗ lực học tập của mình. Đây cũng là yếu tố quan trọng giúp duy trì sĩ số và tạo động lực để học viên gắn bó với lớp học.

Đổi mới phương pháp dạy học, gắn chữ với đời sống

Một trong những kinh nghiệm then chốt được cô Trần Thị Hồng Phượng nhấn mạnh là đổi mới phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học viên. Thay vì dạy học theo lối truyền thống, giáo viên chủ động đưa những tình huống, vật thật, công việc hàng ngày của người dân vào bài học.

Trong các tiết Tiếng Việt, học viên được yêu cầu mang theo những vật quen thuộc như chùm ổi khi học vần “ôi”, quả xoài khi giới thiệu âm “x”. Sau tiết học, cô trò cùng chia sẻ, thưởng thức sản phẩm từ chính vườn nhà, tạo không khí gần gũi, thân thiện.

Ở môn Khoa học, giáo viên lồng ghép hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt các loại cây như xoài, sầu riêng; cách sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu hiệu quả, tiết kiệm; kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm. Các video hướng dẫn làm nông nghiệp cũng được đưa vào bài giảng, giúp tiết học sinh động, dễ hiểu và thiết thực.

Với môn Toán, giáo viên liên hệ trực tiếp đến hoạt động buôn bán, sản xuất của học viên: tính số tạ xoài bán được trong ngày và quy đổi ra kilôgam; tính diện tích vườn rẫy dựa trên chiều dài, chiều rộng. Những kiến thức tưởng chừng khô khan trở nên gần gũi, giúp học viên nhận thấy rõ giá trị của việc biết chữ, biết tính toán trong đời sống hằng ngày.

Bên cạnh đó, các buổi sinh hoạt lớp cuối tuần còn là dịp để học viên cùng trao đổi kinh nghiệm chăm sóc con cái, ứng xử trong gia đình, chia sẻ những câu chuyện đời thường, tạo sự gắn kết giữa giáo viên và học viên.

Coi người học như người thân

xoamuchu-1.png
Phổ cập giáo dục tiểu học và XMC không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành Giáo dục, mà còn là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao dân trí.

Một điểm nhấn trong công tác XMC tại địa phương là việc giáo viên thực sự coi học viên như người thân trong gia đình. Giáo viên chủ động tìm hiểu hoàn cảnh kinh tế, điều kiện sống của từng học viên để có sự hỗ trợ kịp thời và điều chỉnh phương pháp dạy học phù hợp.

Trường hợp chị H’Ngheo là minh chứng rõ nét. Một mình nuôi ba con nhỏ, không có rẫy đất sản xuất, cuộc sống bấp bênh, chị từng có ý định bỏ học. Trước hoàn cảnh đó, nhà trường đã tham mưu với UBND xã tạo điều kiện để chị được vay vốn từ chương trình nước sạch và chương trình vay vốn vùng khó khăn. Khi cuộc sống dần ổn định, chị không chỉ đi học đều đặn mà còn cùng giáo viên vận động thêm nhiều chị em khác tham gia lớp XMC.

Ngoài việc học chữ, học viên còn được khuyến khích tham gia các hoạt động văn hóa, xã hội tại địa phương như biểu diễn văn nghệ trong Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân, Đại hội Nông dân; tham gia các tiểu phẩm tuyên truyền bài trừ hủ tục lạc hậu, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho cộng đồng.

Thực tiễn cho thấy, việc huy động và duy trì các lớp XMC chỉ đạt hiệu quả khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các ban, ngành, đoàn thể và đội ngũ giáo viên.

Xóa mù chữ không chỉ dừng lại ở việc giúp người dân biết đọc, biết viết, mà còn góp phần trang bị kiến thức khoa học, công nghệ, thông tin, truyền thông, giúp người dân từng bước hòa nhập và tiếp cận bình đẳng với tri thức, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Theo thống kê, năm 2018, tỷ lệ dân số mù chữ trên địa bàn chiếm 3,58%. Thực hiện nghiêm túc và hiệu quả chương trình XMC của cấp có thẩm quyền, từ năm 2018 đến năm 2024, Trường Tiểu học Bi Năng Tắc đã chủ động tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương mở được 12 lớp học xóa mù chữ, với 247 học viên, bình quân 19 học viên/lớp, độ tuổi từ 15 đến 65 tuổi. Đến nay, tỷ lệ người dân mù chữ tại 15 thôn, bon, bản thuộc xã Đắk Gằn cũ đã giảm xuống dưới 1,5%. Những kết quả này không chỉ phản ánh nỗ lực của ngành Giáo dục mà còn cho thấy hiệu quả của cách làm linh hoạt, nhân văn, lấy người học làm trung tâm và cộng đồng làm điểm tựa trong công tác xóa mù chữ.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ