Huyền tích về tiến sĩ khai khoa họ Nhữ

GD&TĐ - Là “ông tổ” khai khoa của họ Nhữ Việt Nam, Tiến sĩ Nhữ Văn Lan còn được gắn với giai thoại khó tin về thế đất “bần cục”...

Di tích đình Đông - nơi thờ Thành hoàng Nhữ Văn Lan.
Di tích đình Đông - nơi thờ Thành hoàng Nhữ Văn Lan.

Trả lại vàng, được đất quý

Tiến sĩ Nhữ Văn Lan (1443 - 1523), người xã An Tử Hạ, tổng Hán Nam, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, Tiên Lãng, Hải Phòng). Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Mùi (1463), là người đầu tiên của huyện Tiên Minh xưa đỗ đại khoa, đồng thời là người khai khoa của họ Nhữ Việt Nam.

Theo gia phả họ Nhữ An Tử Hạ và tư liệu “Hoạch Trạch Nhữ tộc phả” do Tiến sĩ Nhữ Công Toản khởi soạn năm Cảnh Hưng 6 (1745): Ngày xưa, ở trang An Tử Hạ có một người lấy thi thư làm nghiệp, lấy hiếu để giữ nhà, họ Nhữ tên Thực, vợ chồng đẹp đôi, nhà vốn nghèo khó trong sạch, vợ chồng rất trung hậu, thường làm chiếc lều con, dưới bóng cây dừa bên con đường nhỏ, bán trầu nước làm kế sinh nhai.

Hai người tích đức tu nhân trong duyên nợ ba sinh, trên từ đường hương hỏa luôn luôn giữ lòng trong sạch, để rủ dài phúc chỉ cho con cháu. Đó thật là một gia đình tích thiện, có thể biết trước là con cháu đời sau sẽ hưng vượng vậy. Một đêm gió lớn cây dừa nghiêng ngả, sáng sớm bà quán ra xem, thấy ở gốc cây dừa có chiến nồi chân, liền bưng về báo với chồng.

Hai người mở ra coi, thấy toàn vàng tốt, lại đậy nắp lại như cũ và đem chôn chỗ khác cẩn thận, không chút tơ hào. Mấy tháng sau, có mấy người khách ở Bắc sang cứ đi đi lại lại, quanh chỗ cây dừa đổ, tìm tòi, họ biết rằng số vàng đã mất. Ông Nhữ bèn gọi vào hỏi chuyện.

Người Bắc khách kể rõ sự tình: “Tiên tổ chúng tôi có để của gồm một nồi vàng ở gốc cây dừa, nay chúng tôi không lấy nghìn dặm làm xa, tìm đến đây, không ngờ cây dừa đã đổ… Trộm nghĩ vật của tổ tiên để lại, nhiều ít đều là quý, cho nên tư lự triền miên, bước đi chẳng dứt vậy”.

Ông Nhữ bèn cười mà nói rằng: “Tưởng là vật gì chứ vậy ấy thì thật dễ thấy”. Nói xong bèn làm cơm rượu đãi Bắc khách rồi mang nồi vàng ra trả. Người khách rất mừng, mở nồi ra xem thấy dấu vết cha ông để lại, không suy suyển một phân, bèn xẻ một phần của cải để tặng lại, song cả hai ông bà đều cố từ chối, không nhận. Bắc khách ở lại chơi 5, 6 ngày nữa… lưu vàng một nén, nhưng ông lại sai người đuổi theo để trả.

Bắc khách cho ông bà là người trung hậu, ba bốn ngày sau trở lại, đặt cho một kiểu đất âm phần để đền ơn và dặn: Kiểu đất này là kiểu “bần cục” nhưng đời nối đời làm công khanh đấy, vả lại phía trước ngôi mộ có chữ Vương có thể phát phúc...

Ông Nhữ ở đất ấy, vừa được ngoài trăm ngày thường nằm mộng thấy một chú bé từ trên trời xuống, đứng ở đầu giường tự xin làm con và đọc bài thơ “Hoàng Thiên cho phép giáng trần”. Đọc xong liền nhập vào bụng bà Nhữ. Từ đó bà có mang, đến hẹn kỳ sinh được một con trai, mày thanh, mắt đẹp, tam đình bình mãn, ngũ nhạc triều qui. Cậu bé giáng trần đó chính là Nhữ Văn Lan.

huyen-tich-ve-tien-si-khai-khoa-ho-nhu-1-7199.jpg
Khu lăng mộ thuộc cụm di tích lịch sử Tiến sĩ Nhữ Văn Lan tại Hải Phòng.

Làm quan thanh liêm, làm người thơm thảo

Tuy sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng từ khi còn nhỏ, cậu bé Nhữ Văn Lan đã được gia đình cho học chữ thánh hiền, năm 17 tuổi lại cho đi tầm sư học đạo, dùi mài kinh sử. Ông đã bộc lộ tư chất “thông minh xuất chúng, dĩnh ngộ dị thường, thiên kinh vạn quyển làu thông, ngũ điển tam phần quán triệt…”.

Năm Quang Thuận thứ 4 (1463), nhà vua mở khoa thi, Nhữ Văn Lan tham gia ứng thí, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khi vừa tròn 20 tuổi. Khoa thi này được xếp vào hạng lừng danh nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam với ba vị Tam khôi nổi tiếng: Trạng nguyên Lương Thế Vinh, Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh và Thám hoa Quách Đình Bảo.

Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Quý Mùi (1463) do Đông các Hiệu thư Đào Cử vâng sắc soạn, có đoạn miêu tả: “Gặp năm có khoa thi lớn, kẻ sĩ ca bài “Lộc minh” mà đến, đông tới 1.400 người, để cùng nhau đua tranh tài nghệ trong chốn xuân vi, hạng xuất sắc chọn được 44 người.

Hoàng thượng ngự ở hiên điện thân hỏi về đạo trị nước của các bậc đế vương… định thứ bậc cao thấp. Ban cho bọn Lương Thế Vinh trở xuống đỗ Tiến sĩ cập đệ, xuất thân thứ bậc có khác nhau.

Ngày 22, vua ngự điện Kính Thiên, cho gọi loa xướng tên người thi đỗ. Quan bộ Lễ rước bảng vàng ra yết ngoài cửa Đông Hoa để cho các sĩ tử xem tên. Lại ban áo mũ, yến tiệc để tỏ ý yêu mến đặc biệt, ơn sủng thật trọng hậu”.

Sau khi thi đỗ, Nhữ Văn Lan ra làm quan dưới triều nhà Lê. Suốt 40 năm làm quan trong giai đoạn thịnh trị nhất của triều Lê sơ cũng như lịch sử phong kiến Việt Nam, ông thường giữ điều cương chính, làm quan thanh liêm, mẫn cán, trải thăng nhiều chức, đến Lễ Khoa cấp sự trung rồi cuối cùng thăng tới chức Thượng thư bộ Hộ.

Năm 1503 khi ở tuổi 60, Tiến sĩ Nhữ Văn Lan xin về trí sĩ tại quê nhà làng An Tử Hạ và được vua ban thưởng vàng bạc gấm vóc rất hậu. Trong 20 năm cuối đời sống tại quê hương, ông thể hiện rõ nhân cách thuần hậu, thơm thảo, có những đóng góp thiết thực đối với đời sống của nhân dân trong vùng như hướng dẫn dân làm thủy lợi, cầu cống…

Chuyện này trong “Hoạch Trạch Nhữ tộc phả”, Tiến sĩ Nhữ Đình Toản có viết: “Người về đến quê hương, đem lộc vua ban chia cho bè bạn cố nhân, rồi xây dựng gia đường làm nơi phụng thờ tiên tổ cha mẹ.

Người lại lập một ngôi sinh từ ở khu Đoài để làm nơi hưởng thần trăm năm của mình. Người còn để lại cho dân xã ba nén vàng làm của hương khói về sau. Từ đó người đi về nhàn du ở đất khu Đoài, khuyên bảo mọi người về việc nông trang, khuyên việc tiện lợi, trừ bỏ điều hại, rất là có công đối với dân”.

Năm 1523, niên hiệu Thống Nguyên thời vua Lê Cung Hoàng, Tiến sĩ Nhữ Văn Lan tạ thế tại quê nhà ở tuổi 80. Nhân dân khu Đoài tưởng nhớ công đức viết thần hiệu và lập miếu thờ ông.

Trải qua nhiều triều đại, đến năm Mậu Thân, đời vua Tự Đức (1848) đã có sắc phong của triều đình phong ông là Phúc đẳng thần - “Cương chính bác đạt phúc thần, chuẩn hứa An Tử Hạ trang, Đoài khu phụng chỉ”. Dân làng tôn ông là Thành hoàng và xây đình để tưởng nhớ.

Hiện nay, tại cánh đồng phía Bắc thôn Nam Tử vẫn lưu giữ khu mộ thiêng mà dân làng quen gọi là mả Nghè. Nơi đây có 3 ngôi mộ của Tiến sĩ Nhữ Văn Lan và phu nhân, con gái Nhữ Thị Thục - thân mẫu Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trải qua gần 500 năm nhưng khu đất này không đổi thay, vẫn được dân tôn kính, gìn giữ.

Dấu tích về Tiến sĩ họ Nhữ tại địa phương còn có thể kể đến di tích đình Đông (đình Hai Giáp) thờ hai vị Thành hoàng là Nhữ Văn Lan của giáp Đoài và “Thiên Quan Hòe Vương” của giáp Đông. Đình được xây dựng ngay trên khuôn viên đất ở của họ Nhữ. Bên cạnh đó là Từ đường họ Nguyễn – Nhữ thờ Tiến sĩ Nhữ Văn Lan, bà Nhữ Thị Thục, Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm...

huyen-tich-ve-tien-si-khai-khoa-ho-nhu-2.jpg
Phần mộ Tiến sĩ Nhữ Văn Lan.

Sấm ký Trạng Trình trên lư hương thờ ông ngoại

Theo nguồn gia phả họ Nhữ, Tiến sĩ Nhữ Văn Lan có ba người con gồm hai trai, một gái. Người con trai cả, theo lưu truyền thì mất sớm, hai người con còn lại đều học hành chu đáo, thành danh. Con trai thứ là Nhữ Huyền Minh làm Tri huyện Lục Ngạn, sau di cư về xã Lôi Dương, huyện Đường An, trấn Hải Dương.

Người con gái Nhữ Thị Thục, sau được vua phong là Từ Thục phu nhân, là người có học vấn cao, đặc biệt rất giỏi thơ văn, lý số, là người phụ nữ có tính cách mạnh mẽ khác thường. Bà kén chồng cho đến khi luống tuổi mới chịu lấy ông Nguyễn Văn Định là Giám sinh, người bên kia sông Hàn thuộc huyện Vĩnh Bảo và sinh ra Nguyễn Văn Đạt (tức Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Tuy nhiên, trong hầu hết các tài liệu nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đều như quên không nhắc đến ảnh hưởng lớn của họ ngoại, mà điển hình là người mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan trong việc nuôi dưỡng và giáo dục cậu bé Nguyễn Văn Đạt những năm thơ ấu.

Trong gia phả của họ Nguyễn (hậu duệ người con thứ 7 của Trạng Trình) ở thôn An Tử Hạ còn ghi lại: “Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế”, cho thấy ông ngoại Nhữ Văn Lan là người có công chu đáo nuôi dạy Nguyễn Văn Đạt lúc còn nhỏ.

Lúc sinh thời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cử người con trai thứ 7 (con trai út) là Nguyễn Ngọc Liễn dẫn người cháu đội bát hương sang sinh cơ lập nghiệp ở làng An Tử Hạ, xã Kiến Thiết quê ngoại để trông coi phần mộ và thờ phụng ông bà ngoại Nhữ Văn Lan cùng thân mẫu Nhữ Thị Thục.

Sau nhiều năm liền hưng thịnh, dưới triều vua Lê Uy Mục (1505 - 1509) nhà Lê bắt đầu giai đoạn suy yếu cùng cực, rồi bị nhà Mạc tranh giành kéo theo cuộc nội chiến tranh ngôi giữa Bắc Triều (nhà Mạc) và Nam Triều (nhà Lê ở Thanh Hóa).

Do thế cục phức tạp nên thời kỳ này, con cháu họ Nhữ đi ẩn tích ở huyện Đường An. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cử con trai là Nguyễn Ngọc Liễn dẫn người cháu nội sang sinh cơ lập nghiệp ở An Tử Hạ, để trông coi phần mộ và thờ phụng cụ ngoại.

huyen-tich-ve-tien-si-khai-khoa-ho-nhu-3.jpg
Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi (1463) - ghi danh Tiến sĩ Nhữ Văn Lan.

Dân gian còn lưu truyền rằng, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cho đặt một lư hương màu gan gà ở lò gốm Thủy Nguyên, đề một bài ký lên đó và cho con cháu đội sang thờ cụ ngoại. Chiếc lư hương này, đến những năm 1950 vẫn còn, nhưng khi chạy loạn thời chống thực dân Pháp thì đã bị vỡ, một mảnh có chữ vẫn được giữ lại đến những năm 1960 thì thất lạc. Trước đó, bài ký đã được nhiều người ghi chép lại trong các tài liệu khác nhau.

“Tư hiếu dĩ phụng tiên/ Vị viên hựu phục viên/ Lai tam tam thế hậu/ Lịch số sổ bách niên/ Thế nhân phùng khuyết liệt/ Chu ngũ phục nguyên tuyền/ Hữu xương hồ nhân thập/ Hữu xí hồ song thiên/ Long xà an sở ngộ/ Đĩnh xuất tử tôn hiền/ Nội ngoại giao để củng/ Thủy chung như nhất phiên/ Thời lộ huyền vi chỉ/ Xuất lô hương vu Tổ/ Kiến long phi tại thiên”.

Dịch nghĩa: Lo điều hiếu để thờ tổ tiên/ Chưa tròn vẹn thì càng tròn vẹn/ Sau này ba, ba đời nữa/ Trải số vài trăm năm/ Người đời gặp khi khuyết liệt/ Trọn số năm lại nguyên toàn/ Có may gồm mười người/ Có mừng là vài ngày/ Phúc và lộc khó gặp nhau/ Đĩnh xuất nên con cháu hiền hòa/ Nội và ngoại cùng chen chân hầu hạ/ Trước sau như một lần/ Đường ra không chọn cho riêng mình/ Cúng lư hương thờ Tổ/ Vào năm vua ta lên ngôi.

Theo “Hoạch Trạch Nhữ tộc phả” thì bài ký này như một lời sấm truyền rằng, con cháu họ Nhữ sau này có nhiều người đỗ đạt, hiển vinh. Con cháu nội, ngoại hiền hòa, đoàn kết, chen chân thờ phụng tổ tiên…

Ghi nhận công lao của Tiến sĩ Nhữ Văn Lan, huyện Tiên Lãng đã lấy tên danh nhân đặt cho tuyến phố chính của thị trấn Tiên Lãng và tên của ngôi trường THPT tại địa phương. Hàng năm vào ngày 19 tháng 10 (âm lịch), người dân lại kỷ niệm ngày mất của Tiến sĩ Nhữ Văn Lan, thu hút đông đảo con cháu họ Nhữ và họ Nguyễn cùng du khách thập phương về dâng hương, tưởng nhớ. Năm 2018, “Quỹ Khuyến học Nhữ Văn Lan” và “tủ sách thiện nguyện” được thành lập tại đình Đông. Tại đây, hàng năm đều diễn ra các hoạt động văn hóa - giáo dục, biểu dương khen thưởng học sinh giỏi nhằm khuyến khích tinh thần học tập, noi gương tiền nhân.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ