Điều đó được hiểu là giáo dục “ngoài luồng”, như “cái bóng”, song hành của giáo dục chính khóa trong các nhà trường. Phân tích SE của một số nước châu Á có thể giúp ta có cách nhìn, tham khảo về quan niệm và cách tổ chức học thêm ở Việt Nam sao cho có hiệu quả giáo dục tốt nhất.
Học sinh châu Á học thêm khá cao
Hiện tượng SE có một lịch sử lâu dài tại khu vực châu Á. Ngay từ năm 1943 đã có hình thức giáo dục này ở Sri Lanka. Cùng với sự phát triển của hệ thống giáo dục chính quy của các quốc gia, SE cũng từ đó mà nổi lên, trở thành lực lượng giáo dục hùng hậu ở nhiều nước. Nhật Bản và Hàn Quốc là các quốc gia mà chính phủ rất quan tâm, đầu tư nghiên cứu về SE để từ đó đưa ra nhiều chính sách phù hợp và được áp dụng từ những năm 60 của thế kỷ trước.
Qua kết quả khảo sát mẫu ở nhiều trường phổ thông của 32 nước cho thấy, tỷ lệ học sinh học thêm là khá cao, ví dụ: Trung Quốc có 73,8% học sinh tiểu học, 65,6% học sinh THCS và 53,5% học sinh THPT; tỉ lệ này ở Hàn Quốc lần lượt là 87,9%, 72,5% và 60,5%; Nhật Bản là 15,9%, 65,2% và 24,8%; Azerbaijan có 93,1% học sinh cuối cấp THPT; Mông Cổ có 66% học sinh cuối cấp THPT; Singapore có 97% học sinh phổ thông.
Số tiền đầu tư cho học thêm ngoài nhà trường là rất lớn |
Các dữ liệu thống kê nêu trên, mặc dù không được bảo đảm độ chuẩn xác như dữ liệu về hệ thống trường học chính khóa, tuy nhiên cũng cho ta thấy một bức tranh phác thảo SE khu vực châu Á.
Học thêm nhiều nhất là các môn được coi là cần thiết để tiếp tục học cao hơn trong hệ thống giáo dục, như Toán, Ngữ văn hay Anh văn. Ngoài bám theo trực tiếp các môn học ở trường, các lớp học thêm thường bổ trợ các môn học chính khóa theo nhiều cách khác nhau. Giáo viên dạy thêm thường thể hiện sự khác biệt, thương hiệu của bản thân, thông qua nội dung và phương pháp dạy thêm.
Dạy theo giáo án riêng cho nhóm nhỏ, nhóm lớn và cả hình thức một kèm một. Đôi khi dạy nâng cao, mở rộng giáo án dạy chính khóa.
Số tiền rất lớn chi cho học thêm
Chi phí học thêm khác nhau rất nhiều, nó phụ thuộc vào chất lượng, địa điểm, quy mô lớp học, tính chất của cơ sở dạy thêm… và cả “uy tín” của người dạy. Tỷ lệ học sinh ở các hộ giàu có con đi học cao hơn hộ nghèo và học phí cho học thêm cũng chi trả cao hơn.
Tại Hàn Quốc, chi tiêu cho SE khoảng 17,3 tỷ USD/năm, tương đương 80% chi tiêu của chính phủ cho giáo dục công; còn tại Nhật Bản là 12 tỷ USD/năm, tại Singapore là 680 triệu USD/năm…
Rõ ràng có một số tiền lớn của phụ huynh ở các nước phát triển được chi cho SE. Sự nở rộ SE có tác động mạnh về phân tầng xã hội và tạo ra sự bất bình đẳng lớn. Giáo viên dạy thêm có thu nhập cao hơn nhiều giáo viên không dạy. Hộ gia đình giàu có, có điều kiện cho con đi học, trong khi hộ nghèo và khó khăn không đủ tiền đóng học phí học thêm cho con. SE thực sự là gánh nặng tài chính, đáng lẽ không đáng có. Thanh thiếu niên bị tạo thêm áp lực khi phải tham gia học thêm. Vì thế tuyên bố chính thức về giáo dục miễn phí, công bằng xã hội không còn có nhiều ý nghĩa và nguy cơ đe dọa mục tiêu chung của các nước và toàn cầu...
Giáo dục Việt Nam đang tập trung đổi mới giáo dục phổ thông chính khóa |
Giải pháp cho Việt Nam
Ở Việt Nam, hiện tượng SE cũng không khác nhiều so với các nước châu Á. Những nội dung thuộc về bản chất, nguyên nhân, nhận định mặt tốt và chưa tốt của SE ở Việt Nam, có nhiều điểm cũng tương đồng như các nước khác trong khu vực.
Chúng ta đã có Thông tư số 17/2012/TT-BGDĐT, ngày 16/5/2012 ban hành quy định về dạy thêm, học thêm để hướng dẫn cho các trường phổ thông. Thông tư đã quy định đầy đủ về nguyên tắc; cách tổ chức; cấp giấy phép; trách nhiệm của các bên liên quan; Kiểm tra và xử lý vi phạm của hoạt động SE.
Hầu hết các địa phương đã thực hiện tốt Điều 15 trong Thông tư, bằng cách ban hành văn bản của UBND tỉnh, thành phố quy định cụ thể và chi tiết để quản lý SE trên địa bàn. Tuy nhiên, nhìn chung hiệu lực của Thông tư 17/2012 vẫn còn hạn chế, dẫn đến hiện tượng SE ở nhiều nơi vẫn xảy ra tiêu cực, khó quản lý, gây bức xúc trong ngành và dư luận xã hội. Xin đưa ra một số nhận định và lưu ý như sau:
Cần thống nhất quan điểm: Công nhận sự tồn tại, bản chất và ý nghĩa của SE. SE là một hiện tượng xã hội, không tự mất đi và cũng không thể cấm hoạt động. SE là một lĩnh vực phức tạp, nhưng vẫn có thể tìm ra cách quản lý phù hợp, hiệu quả hơn bằng cách thảo luận rộng rãi, công khai và có trách nhiệm thay vì bỏ qua hoặc thiếu trách nhiệm tới vấn đề này. Quy định học thêm cần cụ thể để khuyến khích những khía cạnh tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của SE. Cần làm cho cha mẹ học sinh và xã hội thấy được lợi ích tới đâu khi học sinh tham gia học thêm. Trừ trường hợp vì mục đích trông trẻ, thì việc học thêm cho học sinh này thì tốt, nhưng học sinh khác lại không tốt, thậm chí lại có hại.
Từng bước cải tiến việc đánh giá học sinh, đổi mới phương thức, nội dung thi tuyển trong trường, từng địa phương và quốc gia, nhằm giảm áp lực học thêm. Đây có thể coi là nguyên nhân chính và là giải pháp nòng cốt để chuyển hướng tích cực cho SE.
Xây dựng dữ liệu về SE một cách chuẩn xác, giúp cho việc ban hành các văn bản quản lý học thêm ở các nhà trường có tính khả thi cao. Lấy dữ liệu thông qua báo cáo thống kê hàng năm, qua điều tra dân số quốc gia hoặc qua các tổ chức xã hội hay nghề nghiệp.