Điện Biên: Huỷ án sơ thẩm vụ nhà báo “hầu tòa” vì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Điện Biên: Huỷ án sơ thẩm vụ nhà báo “hầu tòa” vì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Hội đồng xét xử (HĐXX) cho rằng còn có nhiều mâu thuẫn với thực tế và hồ sơ, do đó quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Nhà báo bị trả thù?

Sáng nay, TAND tỉnh Điện Biên tiến hành phiên xét xử phúc thẩm vụ án một cách nhanh chóng với sự triệu tập của bị hại Dương Đức Hiển, bị cáo Nguyễn Hải Phong, đại diện VKSND và người bào chữa.

Thẩm phán Nguyễn Trọng Đoàn, Chủ tọa phiên tòa cho biết: Trên cơ sở xem xét toàn diện các tài liệu, chứng cứ, diễn biến vụ án, lời khai của các bị hại, bị cáo, người làm chứng tại cơ quan điều tra và phiên tòa sơ thẩm cũng như những hồ sơ khác có trong vụ án, HĐXX thấy các lời khai còn có nhiều mâu thuẫn với các tài liệu có trong vụ án như: địa điểm, cách thức giao nhận tiền giữa bị cáo và bị hại.

Xét thấy cần phải điều tra xác minh làm rõ thêm về thời gian, cách thức bị cáo đưa tiền cũng như thời gian, cách thức bị hại yêu cầu bị cáo giả tiền với điều kiện khoảng cách thực tế nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không trả lời bổ sung được.

Căn cứ theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 355 và Điểm đ, Khoản 1, Điều 358, Điều 360 hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy đơn kháng cáo của bị cáo là có căn cứ do vậy chấp nhận đơn kháng cáo này.

HĐXX quyết định hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 94 ngày 31/10/2019 của TAND huyện Tuần Giáo. Giao hồ sơ vụ án cho VKSND huyện Tuần Giáo để điều tra, xét xử lại theo quy định của pháp luật về án phúc thẩm.

Trước đó, ngày 31/10/2019, tại trụ sở TAND huyện Tuần Giáo, HĐXX do ông Bùi Thanh Tuấn, thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa đã tuyên án phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 90, tuyên bố bị cáo Nguyễn Hải Phong (Trưởng đài TT-TH huyện Tuần Giáo) phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản áp dụng theo Điểm a Khoản 3 Điều 174; Điểm b,v Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự, xử bị cáo 7 năm tù kể từ ngày 16/5/2019.

HĐXX lúc bấy giờ cho rằng bị cáo Nguyễn Hải Phong không thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Nhưng hành vi của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại Dương Đức Hiển, lời khai của người làm chứng bà Lò Thị Thẹo, lời khai và lời trình bày của người có nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

HĐXX cho rằng đã đủ cơ sở kết luận ngày 11/8/2017 tại nhà của Dương Đức Hiển ở khối Đoàn kết, thị trấn Tuần Giáo, huyện Tuần Giáo, Nguyễn Hải Phong đã thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt số tiền 248 triệu đồng bằng việc đưa ra thông tin gian dối là có thể xin được việc làm cho cháu của Hiển là Nguyễn Mạnh Cường vào làm việc tại Đài TT-TH Tuần Giáo.

Tuy nhiên, trên thực tế bị cáo Phong không có khả năng xin được việc cho Cường, sau khi chiếm đoạt số tiền trên đã chi tiêu cá nhân hết.

Không chấp nhận bản án này, kết thúc phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn Hải Phong đã liên tục kêu oan, viết đơn cầu cứu tới nhiều cơ quan, đơn vị. Trong lá đơn gửi các cơ quan báo chí, Nguyễn Hải Phong cho rằng do mình từng khai thác các vấn đề tiêu cực tại huyện Tuần Giáo nên đã bị trả thù bằng cách dàn dựng vụ án, chuyển hóa khoản số tiền vay của Dương Đức Hiển 200 triệu đồng (tiền gốc) thành khoản vu nhận tiền để chạy việc.

Theo nội dung đơn thư, năm 2013 Nguyễn Hải Phong cùng một số đồng nghiệp công tác tại cơ quan báo chí Trung ương có tham gia viết bài phản ánh tiêu cực tham nhũng của các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Tuần Giáo (công an, viện kiểm sát huyện) khiến con đường quan lộ của một số cán bộ chủ chốt bị “lỡ đà”, trong đó có cả cán bộ làm thẩm định viên của vụ án này.

Bị cáo Nguyễn Hải Phong cho rằng bản thân bị gài bẫy
Bị cáo Nguyễn Hải Phong cho rằng bản thân bị gài bẫy 

Nhiều điểm cần làm rõ

Theo cáo trạng số 88 ngày 16/9/2019 của VKSND huyện Tuần Giáo và bản án số 94 ngày 31/10/2019 của TAND huyện Tuần Giáo: Đầu năm 2017, Nguyễn Mạnh Cường (cháu của bị hại Dương Đức Hiển) nhờ Hiển xin vào làm việc tại Đài TT-TH Tuần Giáo.

Do quen biết với Nguyễn Hải Phong nên Hiển có nhờ Phong xem xét, giúp đỡ. Bản thân Phong không có khả năng cũng không có mối quan hệ nào để xin vào làm việc tại các cơ quan nhà nước cho người khác, nhưng Phong vẫn hẹn gặp Hiển và hứa giúp với chi phí 300 triệu đồng.

Ngày 11/8/2017 Phong đến nhà Hiển, qua thỏa thuận Hiển nhất trí giao trước cho Phong số tiền 248 triệu đồng. Số tiền còn lại là 52 triệu đồng hẹn khi nào Phong xin được việc sẽ đưa nốt. Phong nhất trí, hai bên tiến hành làm giấy biên nhận tiền với nội dung “ông Phong tạm nhận của ông Dương Đức Hiển số tiền 248 triệu đồng, với lý do ông Phong hứa xin việc cho cháu của ông Dương Đức Hiển vào làm việc tại Đài TT-TH Tuần Giáo. Nếu đến ngày 30/3/2018 Phong không xin được việc làm cho cháu của anh Hiển thì Phong sẽ trả lại tiền”.

Việc giao nhận tiền và ký giấy biên nhận ngoài Hiển và Phong ra còn có Quàng Thị Như Quỳnh và bà Lò Thị Thẹo trú tại khối Đoàn kết, thị trấn Tuần Giáo, huyện Tuần Giáo biết và chứng kiến.

Phong sau khi cầm được tiền nhưng không liên hệ với ai và không xin việc cho cháu của Hiển như đã hứa mà sử dụng toàn bộ số tiền trên vào mục đích cá nhân hết. Đến ngày 30/3/2018 không thấy Phong xin được việc làm như đã thỏa thuận, Hiển nhiều lần đến gặp Phong đòi lại tiền nhưng Phong khất lần không trả. Nghi mình bị lừa nên ngày 22/1/2019, Hiển đã làm đơn tố cáo hành vi lừa đảo của Phong với cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo.

Hình sự hóa quan hệ dân sự?

Luật sư Nguyễn Thị Minh Châu, Văn phòng luật sư Bảo Châu và Cộng sự (Đoàn luật sư thành phố Hà Nội) người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hải Phong cho biết: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ, kết quả thẩm vấn công khai tại phiên xét xử sơ thẩm, đối chiếu với các quy định của pháp luật và lời kêu oan của bị cáo Nguyễn Hải Phong, khẳng định rằng giữa mình với bị hại Dương Đức Hiển là quan hệ vay nợ dân sự. Bởi căn cứ hợp đồng vay có bảo đảm thì đây là một vụ án oan cần xem xét điều tra lại từ đầu toàn bộ vụ án.

Bị cáo Nguyễn Hải Phong cho biết: Bị cáo có vay của Hiển số tiền 200 triệu đồng với lãi suất 2.000đồng/1 triệu đồng/1 ngày vào buổi trưa ngày 11/8/2017. Thời hạn vay kể từ 11/8/2017 đến 30/3/2018. Việc vay nợ được thực hiện bằng cầm cố thẻ nhà báo mang tên Nguyễn Hải Phong và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Đài TT-TH Tuần Giáo.

Việc vay nợ còn được thể hiện bằng 1 giấy vay tiền do bị cáo viết tay để Hiển giữ làm tin. Vì nghĩ mình là người vay chỉ cần viết giấy vay và cầm cố các giấy tờ khác nên bị cáo thấy không cần lưu giữ giấy tờ vay nợ.

Đến ngày 27/11/2017, tại trụ sở Đài TT-TH huyện Tuần Giáo, bị cáo Phong đã trả cho ông Hiển 30 triệu đồng tiền lãi. Thời điểm đó, việc làm lại giấy chốt nợ thay cho giấy cũ lẽ ra phải được thể hiện số nợ gốc 200 triệu đồng và có thể gộp số lãi còn lại (được tính là 48 triệu đồng) là đầy đủ và trung thực.

Tuy nhiên, ông Hiển lại mang đến một giấy biên nhận do chính tay ông tự soạn trước với nội dung vẫn giữ nguyên thời hạn vay và trả nợ như trước. Số tiền 248 triệu đồng từ số nợ gốc 200 triệu và lãi 48 triệu được chuyển hóa thành việc nhận tiền để xin việc cho Nguyễn Mạnh Cường (cháu gọi ông Hiển bằng cậu).

Theo Luật sư Nguyễn Thị Minh Châu, về điều này, lời khai của ông Hiển và người nhà theo bản án là đã sai sự thật. Bởi nếu đúng như lời khai về thời gian thì từ lúc hơn 17 giờ (ngày 11/8/2017) nếu bị cáo Phong đến nhà ông Hiển bắt đầu câu chuyện cho đến khi bị cáo ra về thời gian không thể dưới 60 phút. Bởi hai bên phải trao đổi chuyện xin việc (nếu có); đến khi thống nhất nội dung Giấy biên nhận (nếu có) cho đến thời gian ông Hiển soạn thảo in ấn giấy biên nhận, rồi thời gian bị cáo đọc biên bản, điền vào chỗ trống và ký biên bản, đến việc giao tiền.

Như lời khai bà Quàng Thị Như Quỳnh (vợ của ông Hiển) nói là nhiều mệnh giá khác nhau thì phải đếm tiền, kiểm tra tiền, chưa kể đến việc trao đổi những câu chuyện khác xã giao trong màn chào hỏi, ra về, đến lúc giữ bị cáo lại ăn cơm... Thực hiện những phần việc trên không thể dưới 60 phút. Nghĩa là khi kết thúc buổi trao đổi cũng phải hơn 18 giờ mới xong.

Trong khi cũng vào thời gian đó (17 giờ đến 17 giờ 30 ngày 11/8/2017), thứ 6 hàng tuần, bị cáo Phong với tư cách là người phụ trách đơn vị phải chuẩn bị cho chương trình truyền hình để phát vào buổi tối cùng ngày và còn có nhiệm vụ chuyển tư liệu lên Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh để chuẩn bị phát vào ngày hôm sau. Với khối lượng công việc nhiều như thế thì không thể nói bị cáo có mặt tại nhà ông Hiển vào lúc 17 giờ ngày 11/8/2017 để thực hiện các công việc nêu trên. Theo Luật sư, đó là điều phi lý.

Cũng theo Luật sư, bằng chứng là các email nghiệp vụ được thực hiện vào thời gian này mà bị cáo gửi nội bộ chỉ đạo thực hiện cũng như chuyển lên Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh được thu thập được có thể chứng minh trong thời gian này bị cáo đang làm việc ở cơ quan, không thể có mặt ở nhà ông Hiển như lời khai của ông ta và gia đình.

Luật sư Nguyễn Thị Minh Châu cho rằng: Về mặt tố tụng thì những chứng cứ một chiều theo kiểu suy đoán có tội bằng được cho bị cáo đã đi ngược với Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự và còn có một tình tiết cho thấy dấu hiệu vi phạm Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về người làm chứng. Bởi hồ sơ thể hiện suốt quá trình điều tra cho đến khi xét xử vụ án, Nguyễn Mạnh Cường nhân vật chính thể hiện trong “Giấy biên nhận” có trong lời khai của ông Hiển ra thì nhân vật này không hề xuất hiện, dù người bào chữa cho bị cáo đã có đơn đề nghị triệu tập Cường ra tòa để làm rõ những mâu thuẫn có trong hồ sơ nhưng Cường vẫn vắng mặt. Phiên tòa vẫn tiến hành xét xử dù thiếu vắng sự có mặt của nhân vật này.

Với những chứng cứ đó thì việc TAND tỉnh Điện Biên áp dụng Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự để tuyên hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 94 ngày 31/10/2019 của TAND huyện Tuần Giáo, trả hồ sơ về cơ quan tiến hành tố tụng huyện Tuần Giáo để điều tra lại toàn bộ vụ án, đảm bảo việc điều tra, truy tố xét xử bị cáo theo đúng trình tự tố tụng và việc điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện một cách khách quan, toàn diện, tránh làm oan người vô tội là điều hiển nhiên và cần thiết.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ