(GD&TĐ) - Giáo dục là một ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao, có tác dụng nâng cao nguồn trí lực của Australia. Đất nước này đã có những thành công vượt trội so với các nước khác, thu hút được trên 7% lượng sinh viên quốc tế trên toàn thế giới, trong khi dân số nước này chiếm chưa đầy 1% dân số toàn cầu.
Nguồn doanh thu quan trọng
Làn sóng quốc tế hóa là một xu hướng chính trong giáo dục toàn cầu từ những năm 1980. Hồi năm 1986, chính phủ Australia quyết định mở rộng cửa cho sinh viên quốc tế bằng cách cho phép các trường đại học đón nhận sinh viên nước ngoài đến Australia bằng 100% tiền học phí tự túc. Một làn sóng tuyển sinh và tiếp thị khổng lồ diễn ra khiến lượng sinh viên đến Australia tăng vọt đến… 2.000% trong 20 năm, kể từ 1986 đến 2006.
Sinh viên quốc tế là nguồn doanh thu quan trọng thứ ba trong doanh thu xuất khẩu quốc tế ở Australia. Ngành này tạo doanh số 12 tỉ AUD mỗi năm, chỉ đứng sau ngành công nghiệp chiết xuất quặng sắt-than đá và ngành du lịch đang ngày càng lu mờ.
Thị phần của Australia trong thị trường giáo dục quốc tế lớn hơn nhiều lần đối với một nước chỉ đạt được 1,2% mức GDP của toàn thế giới. Tuy nhiên, thay cho việc trở thành niềm tự hào của quốc gia, ngành giáo dục Australia không được đánh giá cao trên toàn cầu.
Lợi ích của việc thu hút sinh viên quốc tế đến học tại các trường đại học Australia khá dễ xác định. Đầu tiên, nền giáo dục đại học quốc tế góp phần tạo công ăn việc làm với mức lương cao cho những người có trình độ chuyên môn tại đây. Điều này được chính phủ ủng hộ và thúc đẩy phát triển.
SV ĐH Brisbane |
Thứ hai, lợi ích của sinh viên quốc tế hồi hương cũng mang lại lợi ích cho các ngành khác. Năm 2009, một báo cáo kinh tế cho thấy sinh viên quốc tế phải đóng khoảng 6,4 tỉ AUD học phí mỗi năm và 4,3 tỉ cho việc ăn ở. Sinh viên quốc tế cũng thường xuyên có gia đình và họ hàng đến thăm và họ có thể trở lại thăm Australia sau khi tốt nghiệp. Các hoạt động này cũng góp phần vào nguồn doanh thu quốc gia.
Thứ ba, sinh viên quốc tế góp phần vào việc cải thiện sự hiểu biết lẫn nhau giữa Australia và các nước khác. Nhiều doanh nghiệp và lãnh đạo chính phủ tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương đã từng học tại các trường Đại học Australia. Họ có những hồi ức thú vị và đánh giá cao những năm tháng đáng nhớ ở xứ sở chuột túi này. Điều này tác động đến cảm nhận của họ về Australia và cải thiện vị thế của Australia trong khu vực.
Cuối cùng, hầu hết các lợi ích kinh tế đều được lưu giữ lại ở Australia và được tái đầu tư trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu. Điều này đóng vai trò quan trọng, bởi giáo dục và nghiên cứu là những động lực nâng cao năng suất và giúp Australia trở nên phồn thịnh hơn. Tăng trưởng trong giáo dục bậc cao tạo ra của cải trong tương lai và khả năng phát triển nguồn lực vật chất và xã hội liên quan tới các cơ sở đào tạo bậc cao.
Chưa được đánh giá đúng mức
Tuy nhiên, vẫn còn có những đánh giá không đúng mức các chương trình giáo dục quốc tế. Các nhà nghiên cứu đã tìm ra 5 nguyên nhân sau đây :
Đầu tiên, người Australia có khái niệm sai lầm khi cho rằng, sinh viên quốc tế giành mất cơ hội được theo học các bậc học sau đại học của họ. Điều này xuất phát từ quan niệm năng lực đào tạo của các trường đại học tại Australia bị hạn chế. Rõ ràng các trường đại học ở đây có hiện tượng bị giới hạn số lượng sinh viên nhưng sinh viên Australia có thể tìm kiếm các nguồn hỗ trợ tài chính. Nếu so sánh sự khác biệt rõ rệt về học phí của sinh viên quốc tế và sinh viên trong nước được sự tài trợ của chính phủ liên bang, sinh viên Australia được bao cấp khá nhiều. Khi càng có nhiều sinh viên quốc tế, các trường càng có nhiều ngân quỹ chi phí cho các hoạt động giáo dục, nghĩa là mở rộng năng lực cho sinh viên Australia.
Thứ hai, có quan điểm cho rằng sinh viên quốc tế làm giảm chất lượng đào tạo của các trường đại học, nghĩa là sinh viên quốc tế được tuyển với tiêu chuẩn thấp hơn sinh viên trong nước. Tiêu chuẩn đầu vào thường được xác định trước đối với sinh viên quốc tế, trong khi số lượng sinh viên trong nước được xác định dựa trên lượng tiền chính phủ liên bang hỗ trợ cho trường. Đó là lý do tại sao đôi khi tiêu chí đầu vào cho hai đối tượng này khác nhau nhưng thường là không quá khác biệt. Hơn nữa, những trường đại học tốt nhất thế giới thu hút sinh viên từ khắp nơi trên thế giới. Cạnh tranh trong một thị trường quốc tế lớn hơn đáng kể sẽ khiến các trường đại học lựa chọn với tiêu chuẩn cao hơn.
SV quố tế ở Sydney |
Vấn đề thứ ba là các sinh viên quốc tế làm giảm giá trị của những năm tháng thời sinh viên, bởi họ không hòa nhập được vào đời sống sinh viên tại đây. Tuy nhiên, với sự trợ giúp của các tổ chức sinh viên, sinh viên quốc tế sẽ giúp sinh viên Australia hiểu thêm về các nước khác và bổ sung kiến thức chuẩn bị cho một nền kinh tế trong giai đoạn đang dần toàn cầu hóa.
Lý do thứ tư là việc phụ thuộc vào doanh thu từ sinh viên quốc tế làm ảnh hưởng tới quy trình và tiêu chuẩn đánh giá sinh viên. Mặc dù chỉ có thể rút ra từ kinh nghiệm của chính mình, Giáo sư Alec Cameron, Trưởng khoa Thương mại trường Đại học New South Wales, cho rằng đây là vấn đề cần xem xét lại. Việc các phó hiệu trưởng danh dự hoặc trưởng khoa can thiệp vào quá trình chấm điểm vì những nguyên nhân thương mại là vấn đề ngoài sức chịu đựng của bất kỳ học giả người Australia nào. Kết cục là các trường đại học Australia phụ thuộc vào tính chính trực trong bằng cấp. Bất cứ hành động nào ngấm ngầm phá hoại danh tiếng đều có thể dẫn đến những hậu quả xấu. Việc cho rằng các trường đại học đang đánh giá sinh viên quốc tế theo khung tiêu chí thấp hơn vì những mục tiêu thương mại ngắn hạn là một nhận định kỳ lạ.
Cuối cùng, một số người cho rằng giáo dục đại học là một trong những mánh lới để sinh viên quốc tế nhập cư. Hiện có hai hướng trả lời cho vấn đề này. Một là Australia hiện tìm kiếm người nhập cư có thể đóng góp vào sự phát triển nền kinh tế đất nước. Như vậy, các sinh viên tốt nghiệp đại học tại Australia và chứng tỏ khả năng sống và học tập tại Australia sẽ có thể có đủ năng lực đóng góp cho nền kinh tế Australia khi làm việc tại đây. Tất nhiên, nếu chính phủ không muốn kết nối việc nhập cư và giáo dục, họ có thể cấp visa với khung thời gian xác định cho việc học tập và thời hạn làm việc giới hạn trước khi ép buộc sinh viên trở về nước. Tuy nhiên, số sinh viên tốt nghiệp ở lại Australia rất nhỏ: chỉ có 21.000 sinh viên nước ngoài được cấp thẻ cư trú trong năm 2008.
Mặc dù còn có những ý kiến khác nhau, nhưng có một điều dễ thấy là giáo dục đại học cho sinh viên quốc tế là một câu chuyện thành công lớn của Australia. Đó là ngành dịch vụ chất lượng cao đặc biệt mà Australia cần phải phát triển, nếu muốn có lợi thế bền vững trong nền kinh tế toàn cầu hóa.
Thiên Trang (tổng hợp)
Năm 2010, trong tổng số 1,1 triệu sinh viên Australia, có 619.119 sinh viên quốc tế đến từ 190 nước (thống kê của Australia Education International). Có 26.000 môn học trong hơn 1.200 đại học, cơ sở đào tạo nghề và trường học, được chia làm ba lĩnh vực chính: đào tạo bậc cao; huấn luyện dạy nghề và học tiếng Anh. Các ngành học được sinh viên quốc tế ưa thích là kinh doanh, quản trị và kinh tế. Các ngành nghiên cứu sau đại học được nữ sinh viên quốc tế chọn là nghệ thuật, khoa học xã hội và nhân văn. Trong khi đó, các ngành nam sinh viên thường chọn là khoa học và kỹ thuật. |