Chất lượng giáo dục ĐH đã bước đầu được kiểm soát

Chất lượng giáo dục ĐH đã bước đầu được kiểm soát
Sinh viên đại học là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước (ảnh minh họa)
Sinh viên đại học là nguồn nhân lực quan trọng của đất nước (ảnh minh họa)

Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời:  Sau 23 năm thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước và 9 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, giáo dục đại học nước ta đã từng bước phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo, nguồn lực xã hội được huy động nhiều hơn và đạt được nhiều kết quả tích cực, cung cấp hàng triệu lao động có trình độ cao đẳng, đại học, hàng vạn nhân lực có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cho đất nước. Đây là lực lượng chủ lực, nòng cốt phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an ninh quốc phòng và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều lĩnh vực kinh tế quan trọng như Công nghệ thông tin (truyền thông), xây dựng giao thông, dân dụng, đóng tàu, hàng không, hàng hải đều do lực lượng lao động trong nước đào tạo đã làm chủ công nghệ.

So với năm 1987, sau 23 năm số lượng các cơ sở giáo dục đại học nước ta tăng hơn 3 lần (376 trường đại học, cao đẳng với 61.150 giảng viên so với 101 trường đại học, cao đẳng và 20.212 giảng viên; 6.217 giảng viên là tiến sĩ so với 2.041, 2.286 GS, PGS so với 526 GS, PGS); năng lực đào tạo tăng gần 13 lần (1,7 triệu sinh viên so với 133.136 sinh viên).

Năm 1987, một giảng viên đại học, cao đẳng đào tạo bình quân 6,6 sinh viên, đến năm 2009 một giảng viên đại học, cao đẳng đào tạo bình quân 28 sinh viên. Sau 23 năm, số sinh viên tăng 13 lần, số trường đại học, cao đẳng tăng 3,7 lần, nhưng số giảng viên chỉ tăng 3 lần. Năm 1987 tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ là 10,09%, năm 2009 là 10,16%.

Một thực tế là, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được trong đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học, nhưng ở một số ngành nghề, một số lĩnh vực đào tạo và một số cơ sở đào tạo, nhất là cơ sở đào tạo mới được thành lập còn thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giảng viên thiếu về số lượng, không đồng bộ về cơ cấu, do đó sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng vẫn còn một tỷ lệ nhất định trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, còn lúng túng, chậm thích ứng với thực tiễn sản xuất, với các dây truyền công nghệ hiện đại, kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc theo nhóm hạn chế,….

Để từng bước mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục đại học và chất lượng nguồn nhân lực, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung vào các giải pháp cơ bản sau:

- Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục đại học:

+ Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của nhà trường: các quy chế, quy định về đào tạo, tuyển sinh, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, quản lý tài chính, tuyển dụng.

+ Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về việc phối hợp và phân cấp quản lý giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ ngành khác và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố đối với các trường đại học, cao đẳng.

+ Kiểm tra thực hiện Thông tư 09/2009/TT-BGDĐT ngày 7/5/2009 ban hành Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân gắn với chỉ tiêu tuyển sinh năm 2010 và các năm sau.

+ Các trường đại học, cao đẳng thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về phát triển của trường: Rà soát và hoàn thiện tất cả các quy định, quy chế của nhà trường, thực hiện 3 công khai, thực hiện tuyển dụng theo hợp đồng, trả lương gắn với hiệu quả đóng góp, kiện toàn các cơ quan quản lý của nhà trường.

+ Đổi mới quy chế đánh giá và cho phép mở ngành tuyển sinh. Kiểm tra tại cơ sở giáo dục trước khi được mở ngành 3 tháng, 3 năm sau đó mỗi năm kiểm tra lại 1 lần.

+ Hoàn thiện quy định về Hội đồng trường và quan hệ giữa Hội đồng trường, Ban giám hiệu, Đảng uỷ trường, các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội.

+ Xây dựng quy định về hoàn thiện việc đánh giá quản lý giáo dục đại học: Sinh viên tham gia đánh giá giảng dạy của giảng viên, giảng viên tham gia đánh giá hoạt động của lãnh đạo trường; các đại học, cao đẳng tham gia đánh giá chỉ đạo, quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ chủ quản và Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố nơi trường đóng, triển khai từ 5/2010.

+ Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn và yêu cầu các trường đại học, cao đẳng xây dựng chuẩn đầu ra cho tất cả các ngành đào tạo của mình.

+ Triển khai Nghị định của Chính phủ về đổi mới cơ chế tài chính giáo dục theo Nghị quyết số 35/2009/QH12 của Quốc hội, các trường cần xây dựng kế hoạch dài hạn 2010-2014, sử dụng phần thu học phí tăng thêm để đầu tư cho các khâu, các yếu tố đầu vào của quá trình đào tạo, nâng cao năng lực quản lý và chăm lo cho giảng viên để có tác dụng rõ rệt nâng cao chất lượng đào tạo.

+  Rà soát, cập nhật quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng trong cả nước, triển khai xây dựng các khu đại học tập trung được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

- Nâng cao chất lượng và chuẩn hoá các đầu vào của hệ thống giáo dục đại học:

+ Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên: Triển khai thực hiện nghiêm túc chế độ làm việc của giảng viên do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Thực hiện quy hoạch đào tạo giảng viên trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đến 2020 ở tất cả các trường cao đẳng, đại học, từ năm 2010 mỗi năm cử khoảng 1.000 giảng viên làm tiến sĩ ở trong nước, 1.000 giảng viên làm thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài. Từ năm học 2009-2010, thực hiện sinh viên tham gia đánh giá giảng dạy của 100% giảng viên. Các giảng viên đại học đều có kế hoạch đến năm 2012 mỗi giảng viên có thể sử dụng tốt ít nhất một ngoại ngữ cho đào tạo và nghiên cứu khoa học.

+ Chuẩn hoá và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo: Thông qua Hội đồng Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng và Trưởng khoa cùng nhóm ngành để thống nhất các chương trình đào tạo khung của các ngành do các trường đào tạo, phân công viết giáo trình dùng chung cho các trường; tham khảo các chương trình tương tự của các trường tiên tiến ở nước ngoài; xây dựng đề án hình thành hệ thống thư viện điện tử chuẩn hoá, hiện đại, liên thông.

+ Chuẩn hoá và đảm bảo đủ 100% giáo trình đại học: Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy chế biên soạn giáo trình đại học. Các trường rà soát tình hình giáo trình, phối hợp qua Hội đồng Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng và Trưởng khoa cùng nhóm ngành để biên soạn giáo trình dùng chung. Phấn đấu đến năm 2012 tất cả các trường đều có đủ giáo trình cho mỗi ngành đào tạo.

+ Chuẩn hoá đội ngũ lãnh đạo các trường đại học, cao đẳng toàn quốc: Hoàn thiện và tiếp tục chương trình bồi dưỡng Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng, phấn đấu từ tháng 12/2011 trở đi tất cả Hiệu trưởng, Hiệu phó đương nhiệm đều qua bồi dưỡng.

+ Triển khai mạnh mẽ chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên, đảm bảo mục tiêu 60% sinh viên có chỗ ở tại ký túc xá vào năm 2020.
 
+ Thực hiện thi và xét tuyển vào đại học nghiêm túc, thực hiện tốt chương trình cho vay để học, nhằm thu hút thanh niên có chất lượng và đạo đức tốt vào học ở các trường đại học, cao đẳng.

+ Tổ chức hội nghị đánh giá đào tạo theo tín chỉ, xây dựng phần mềm quản lý đào tạo theo tín chỉ dùng chung cho các trường đại học, cao đẳng, phấn đấu đến năm 2012 tất cả các trường đại học, cao đẳng đều đã triển khai hoặc có kế hoạch triển khai đào tạo theo tín chỉ.

- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế:

+ Chủ động phối hợp với các tổ chức kiểm định chất lượng ở các nước tiên tiến, với các nước OECD để hình thành nhanh hệ thống các cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục của nhà nước và các tổ chức kiểm định độc lập của các cá nhân, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Phấn đấu đến năm 2012 hình thành ít nhất 3 tổ chức kiểm định độc lập của các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước, do Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép hoạt động theo chuẩn mực quốc tế.

+ Triển khai các chương trình hợp tác với các đại học, các quốc gia để thực hiện đào tạo 10.000 tiến sĩ ở nước ngoài, chương trình nâng cao chất lượng đào tạo và sử dụng ngoại ngữ ở Việt Nam tới năm 2020.

+ Phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ WB, ADB để triển khai các dự án vốn vay xây dựng các đại học xuất sắc.

+ Xây dựng và triển khai đề án thu hút người Việt Nam ở nước ngoài, các nhà khoa học nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, cao đẳng của Việt Nam.

Ông Lê Văn Hưng, Đại biểu Quốc hội tỉnh Hưng Yên: Chất lượng giáo dục đại học đang là vấn đề toàn xã hội quan tâm, có nhiều ý kiến lo ngại và bức xúc, kính mong Bộ trưởng cho biết: Bộ trưởng đánh giá (một cách tổng quát nhất) như thế nào về chất lượng giáo dục đại học hiện nay? Hạn chế yếu kếm nhất là gì? Biện pháp quan trọng và đột phá của Bộ để nâng cao chất lượng giáo dục đại học thời gian tới?

Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời:

1.  Về chất lượng giáo dục đại học

1.1. Chất lượng giáo dục đại học nước ta hiện nay đã bước đầu được kiểm soát và từng bước được cải thiện thông qua nhiều hoạt động và giải pháp, cụ thể:

a. Hình thành hệ thống cơ quan chuyên trách quản lý chất lượng giáo dục đại học từ Trung ương đến các trường

Năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục, sau đó đã hỗ trợ các trường đại học, cao đẳng hình thành 77 tổ chức chuyên trách về đảm bảo chất lượng ở các trường đại học, cao đẳng. Trên cơ sở đó, đến nay đã có 114 trường đại học, cao đẳng tiến hành tự đánh giá chất lượng, chiếm trên 70% số trường đại học cả nước.

b. Tạo sự giám sát xã hội về chất lượng đào tạo và động lực cho việc nâng cao chất lượng đào tạo

Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 09/2009/TT-BGDĐT ngày 07/5/2009 về Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân (trong đó công khai cam kết chất lượng giáo dục và chất lượng giáo dục thực tế; công khai các nguồn lực của cơ sở đào tạo; công khai thu chi tài chính). Các nội dung của “3 công khai” phải được công bố trên Website của mỗi trường, các tài liệu in đầy đủ tại các khoa, trung tâm và thư viện trường ở vị trí thuận tiện để mọi người tiếp cận dễ dàng. Theo đó, từ năm học 2009 - 2010, trường đại học, cao đẳng nào không thực hiện “3 công khai” theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo vào tháng 01/2010 thì sẽ không được phép tuyển sinh năm học 2010 - 2011.

Từ năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã yêu cầu các cơ sở giáo dục đại học xác định chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm phải căn cứ vào số giảng viên và chất lượng giảng viên của trường, tỷ lệ sinh viên trên giảng viên của trường, năng lực thiết bị chuyên ngành phục vụ đào tạo, diện tích phòng học, phòng thí nghiệm theo đầu sinh viên,… qua đó tạo ra sự ràng buộc khách quan giữa phát triển số lượng sinh viên và chất lượng đào tạo.

Nhằm tạo động lực cho quá trình nâng cao chất lượng đào tạo, từ năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai chủ trương “Đào tạo theo nhu cầu xã hội”. Theo đó, nhà trường cần xây dựng và công bố chuẩn đầu ra của mỗi ngành đào tạo, đánh giá sự phù hợp của các chuẩn đó so với nhu cầu sử dụng nhân lực của các doanh nghiệp, nhà nước, người sử dụng lao động. Đến nay có khoảng 10 trường đại học, cao đẳng công bố chuẩn đầu ra của mình (chiếm 2,7% số trường đại học, cao đẳng). theo kề hoạch năm học 2009-2010, tất cả các trường đại học, cao đẳng phải công bố chuẩn đầu ra các ngành đào tạo của trường trước tháng 12/2010. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các Bộ, ngành khác, các doanh nghiệp, các trường đại học, cao đẳng tổ chức 13 Hội thảo quốc gia về đào tạo theo nhu cầu xã hội, qua đó có trên 600 hợp đồng, thoả thuận đào tạo và sử dụng lao động giữa các doanh nghiệp, cơ quan sử dụng lao động và các trường đại học, cao đẳng được ký kết với hơn 10.000 lao động được đào tạo theo đặt hàng. Giá trị thiết bị, chương trình đào tạo mà các doanh nghiệp đã hỗ trợ các trường qua liên kết đào tạo này là khoảng 10 triệu USD.

c. Chuẩn hoá và nâng cao chất lượng các đầu vào của quá trình đào tạo đại học

- Chuẩn hoá chất lượng sinh viên được nhập học: Thực hiện tuyển sinh đại học nghiêm túc; tuyển sinh trong cả nước với đề thi chung cho tất cả các trường đại học, cao đẳng (theo khối thi) và sử dụng chung kết quả thi để xét tuyển cho nhiều trường đại học, cao đẳng khác nhau. Điểm sàn để xét tuyển vào các trường đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định tương ứng với từng khối thi, dao động trong khoảng từ 13 đến 15 điểm/30 điểm cho 3 môn thi.

- Chuẩn hoá giảng viên đại học: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định tỷ lệ tối đa sinh viên/giảng viên của các khối ngành đào tạo khác nhau (Khối Kỹ thuật - Công nghệ: 20 sinh viên/1 giảng viên; khối ngành Kinh tế - Quản trị kinh doanh: 25 sinh viên/1 giảng viên; khối ngành Nghệ thuật, Thể dục thể thao: 15 sinh viên/1 giảng viên; …). Chính phủ cũng đã có Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020, trong đó xác định yêu cầu phải đạt tỷ lệ giảng viên là tiến sĩ qua từng giai đoạn, mục tiêu là đến năm 2020 phải đạt ít nhất 35% giảng viên có trình độ tiến sĩ. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài cho giảng viên các trường đại học, cao đẳng với quy mô ngày càng tăng. Công tác xét và công nhận Giáo sư, Phó giáo sư đã được tiến hành liên tục từ năm 2000 đến nay với quy trình, nội dung có cải tiến. Số giảng viên đại học, cao đẳng đã tăng từ 20.112 năm 1987 lên 61.190 năm 2009 (gấp 3 lần), số giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 2.041 người lên 6.217 người (gấp 3 lần), số giảng viên có trình độ thạc sĩ tăng từ 3.802 người lên 24.831 người (gấp 6 lần), số giảng viên là Giáo sư, Phó giáo sư tăng từ 526 người lên 2.286 người (gấp 4,5 lần).

- Chuẩn hoá đội ngũ lãnh đạo các trường đại học, cao đẳng: Từ năm 2007 đến nay đã tổ chức các lớp bồi dưỡng quản lý trường đại học, cao đẳng, có sự tham gia của chuyên gia có kinh nghiệm nước ngoài, gắn với tham quan các đại học ở nước ngoài cho 252 Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng; đang chuẩn bị lớp bồi dưỡng năm 2009 cho 300 Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng.

- Chuẩn hoá chương trình đào tạo: Trong bối cảnh trình độ đa số giảng viên chưa phải là tiến sĩ, tình hình các trường còn rất khác nhau về chất lượng đội ngũ giảng viên, việc đưa ra chương trình khung cho các ngành đào tạo là cần thiết. Theo đó 50 - 60% khối lượng kiến thức của chương trình đào tạo có nội dung được quy định ở chương trình khung, còn lại là sự lựa chọn và vận dụng phát triển của các trường. Cho đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành được 207 chương trình khung trình độ đại học và cao đẳng.

- Hiện đại hoá chương trình và điều kiện đào tạo qua hợp tác với các đại học có uy tín ở nước ngoài: Được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với các đại học triển khai 23 chương trình đào tạo tiên tiến ở 17 trường đại học thuộc các ngành khoa học công nghệ mũi nhọn chọn lọc, chương trình đào tạo là của trường đối tác, giảng dạy bằng tiếng Anh, đánh giá kết quả theo tiêu chuẩn của trường đối tác. Hiện nay, Bộ đang chuẩn bị triển khai tiếp 12 chương trình.

- Nâng cao chất lượng giáo trình: Để khắc phục tình hình thiếu giáo trình có chất lượng cho các ngành, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo và phối hợp với 24 trường đại học đưa hơn 1.000 giáo trình lên Website của Bộ, đến nay đã có hơn 10 triệu lượt người truy cập vào Website tra cứu.

- Đổi mới phương pháp giảng dạy, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo các trường chủ động đổi mới phương pháp giảng dạy, khuyến khích sinh viên tự học có hướng dẫn, học qua thảo luận và làm việc theo nhóm, giảng viên sử dụng thiết bị trình chiếu và máy tính để giảng dạy.

- Đổi mới cơ chế quản lý tài chính giáo dục đại học: Quốc hội đã có Nghị quyết số 35/2009/QH12 về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015, trong đó có tăng học phí cho giáo dục đại học, thực hiện cơ chế xã hội giám sát đầu tư cho giáo dục. Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 1310/QĐ-TTg ngày 21/8/2009 về điều chỉnh khung học phí đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân năm học 2009-2010; đã quy định chương trình cho học sinh hộ nghèo, cận nghèo vay để học đại học, cao đẳng, học nghề (đến nay có 1,4 triệu học sinh học nghề, sinh viên được vay, chiếm 50% tổng số sinh viên), triển khai chương trình xây kí túc xá cho 60% sinh viên Việt Nam, tạo một cơ hội hết sức to lớn để tạo ra và phát huy thế mạnh của con người Việt Nam được đào tạo trong giai đoạn tăng tốc phát triển bền vững và hội nhập.

- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học tiếp tục được hoàn thiện: Nhiều văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học đã được ban hành, làm căn cứ pháp lý cho các trường tổ chức triển khai thực hiện và công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý các cấp, cụ thể là: Quy chế về tuyển sinh; Quy chế đào tạo; quy định về đào tạo liên thông, liên kết; quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ; công khai trong giáo dục; chế độ làm việc của giảng viên; điều lệ trường cao đẳng; thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia, tách, giải thể trường đại học; tổ chức và hoạt động của đại học tư thục,…

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho công tác kiểm định như: các tiêu chuẩn kiểm định chất lượng, quy trình kiểm định kèm theo các văn bản hướng dẫn đã được xây dựng làm tiền đề cho việc triển khai công tác kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục đại học và các chương trình đào tạo.

Tuy nhiên, so với yêu cầu triển khai Luật Giáo dục 2005 và nhu cầu quản lý chất lượng giáo dục, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật còn chậm, chưa đồng bộ.

Các hoạt động nêu trên do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo triển khai đã có tác dụng quan trọng, tích cực trong việc từng bước nâng cao chất lượng giáo dục đại học và bắt đầu kiểm soát chất lượng giáo dục.

1.2. Những hạn chế chủ yếu của giáo dục đại học

- Việc quản lí nhà nước về giáo dục đại học còn nhiều bất cập, trì trệ, là nguyên nhân cơ bản của việc chất lượng giáo dục đại học không có cải thiện đáng kể trên diện rộng. Nếu không có giải pháp kiên quyết, có tính đột phá, chất lượng giáo dục đại học sẽ ngày càng tụt hậu trước đòi hỏi của phát triển đất nước.

- Chất lượng giáo dục đại học nói chung, trong đó đặc biệt là đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ còn nhiều hạn chế, đang và sẽ còn gây hậu quả cho nền kinh tế trong thời gian tương đối dài.

1.3. Để từng bước mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục đại học và chất lượng nguồn nhân lực, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung vào các nhóm giải pháp cơ bản đột phá sau:

a. Nhóm giải pháp thứ nhất: Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục đại học

- Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của nhà trường: các quy chế, quy định về đào tạo, tuyển sinh, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, quản lý tài chính, tuyển dụng,...

- Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về việc phối hợp và phân cấp quản lý giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ, ngành khác và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố đối với các trường đại học, cao đẳng.

- Kiểm tra thực hiện 3 công khai trong toàn quốc, gắn với chỉ tiêu tuyển sinh năm 2010 và các năm sau. Tất cả các trường được kiểm tra 3 công khai 1 lần, trước tháng 7/2010.

- Các trường đại học, cao đẳng thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về phát triển của trường: Rà soát và hoàn thiện tất cả các quy định, quy chế của nhà trường, thực hiện 3 công khai, thực hiện tuyển dụng theo hợp đồng, trả lương gắn với hiệu quả đóng góp, kiện toàn các cơ quan quản lý của nhà trường.

- Đổi mới quy chế đánh giá và cho phép mở ngành tuyển sinh. Kiểm tra tại cơ sở giáo dục trước khi được mở ngành 3 tháng, 3 năm sau đó mỗi năm kiểm tra lại 1 lần.

- Hoàn thiện quy định về Hội đồng trường và quan hệ giữa Hội đồng trường, Ban giám hiệu, Đảng uỷ trường, các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội.

- Xây dựng quy định về hoàn thiện việc đánh giá quản lý giáo dục đại học: Sinh viên tham gia đánh giá giảng dạy của giảng viên, giảng viên tham gia đánh giá hoạt động của lãnh đạo trường; các đại học, cao đẳng tham gia đánh giá chỉ đạo, quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ chủ quản và Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố nơi trường đóng, triển khai từ 5/2010.

- Hướng dẫn và yêu cầu các trường đại học, cao đẳng xây dựng chuẩn đầu ra cho tất cả các ngành đào tạo của mình.

- Triển khai Nghị định của Chính phủ về đổi mới cơ chế tài chính giáo dục theo Nghị quyết 35/2009/QH12 của Quốc hội, các trường cần xây dựng kế hoạch dài hạn 2010-2014, sử dụng phần thu học phí tăng thêm để đầu tư cho các khâu, các yếu tố đầu vào của quá trình đào tạo, nâng cao năng lực quản lý và chăm lo cho giảng viên để có tác dụng rõ rệt nâng cao chất lượng đào tạo.

- Rà soát, cập nhật quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng trong cả nước, triển khai xây dựng các khu đại học tập trung được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

b. Nhóm giải pháp thứ hai: Nâng cao chất lượng và chuẩn hoá các đầu vào của hệ thống giáo dục đại học

- Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên: Triển khai thực hiện nghiêm túc chế độ làm việc của giảng viên do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Thực hiện quy hoạch đào tạo giảng viên trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đến năm 2020 ở tất cả các trường cao đẳng, đại học, từ năm 2010 mỗi năm cử khoảng 1.000 giảng viên làm tiến sĩ ở trong nước, 1.000 giảng viên làm thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài. Từ năm học 2009-2010, thực hiện sinh viên tham gia đánh giá giảng dạy của 100% giảng viên. Các giảng viên đại học đều có kế hoạch đến năm 2012 mỗi giảng viên có thể sử dụng tốt ít nhất một ngoại ngữ cho đào tạo và nghiên cứu khoa học.

- Chuẩn hoá và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo: Thông qua Hội đồng các Hiệu trưởng trường đại học, cao đẳng và Trưởng khoa cùng nhóm ngành để thống nhất các chương trình đào tạo khung của các ngành do các trường đào tạo, phân công viết giáo trình dùng chung cho các trường; tham khảo các chương trình tương tự của các trường tiên tiến ở nước ngoài; xây dựng đề án hình thành hệ thống thư viện điện tử chuẩn hoá, hiện đại, liên thông.

- Chuẩn hoá và đảm bảo đủ 100% giáo trình đại học: Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ ban hành quy chế biên soạn giáo trình đại học. Các trường rà soát tình hình giáo trình, phối hợp qua Hội đồng Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng và Trưởng khoa cùng nhóm ngành để biên soạn giáo trình dùng chung. Phấn đấu đến năm 2012 tất cả các trường đều có đủ giáo trình cho mỗi ngành đào tạo.

- Chuẩn hoá đội ngũ lãnh đạo các trường đại học, cao đẳng toàn quốc: Hoàn thiện và tiếp tục chương trình bồi dưỡng Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng, phấn đấu từ tháng 12/2011 trở đi tất cả Hiệu trưởng, Hiệu phó đương nhiệm đã qua bồi dưỡng.

- Triển khai mạnh mẽ chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên, đảm bảo mục tiêu 60% sinh viên có chỗ ở tại ký túc xá vào năm 2020.

- Thực hiện thi và xét tuyển vào đại học nghiêm túc, thực hiện tốt chương trình cho vay để học, nhằm thu hút thanh niên có chất lượng và đạo đức tốt vào học ở các trường đại học, cao đẳng.

- Tổ chức hội nghị đánh giá đào tạo theo tín chỉ, xây dựng phần mềm quản lý đào tạo theo tín chỉ dùng chung cho các trường đại học, cao đẳng, phấn đấu đến năm 2012 tất cả các trường đại học, cao đẳng đều đã triển khai hoặc có kế hoạch triển khai đào tạo theo tín chỉ.

c. Nhóm giải pháp thứ ba: Đẩy mạnh hợp tác quốc tế

- Chủ động phối hợp với các tổ chức kiểm định chất lượng ở các nước tiên tiến, với các nước OECD để hình thành nhanh hệ thống các cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục của nhà nước và các tổ chức kiểm định độc lập của các cá nhân, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Phấn đấu đến năm 2012 hình thành ít nhất 3 tổ chức kiểm định độc lập của các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước, do Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép hoạt động theo chuẩn mực quốc tế.

- Triển khai các chương trình hợp tác với các đại học, các quốc gia để thực hiện đào tạo 10.000 tiến sĩ ở nước ngoài, chương trình nâng cao chất lượng đào tạo và sử dụng ngoại ngữ ở Việt Nam tới năm 2020.

- Phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ WB, ADB để triển khai các dự án vốn vay xây dựng các đại học xuất sắc.

- Xây dựng và triển khai đề án thu hút người Việt Nam ở nước ngoài, các nhà khoa học nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, cao đẳng của Việt Nam.

Ông Lê Văn Cuông, Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa: Trong thời gian vừa qua, nhiều trường đại học, cao đẳng mới được thành lập hoặc nâng cấp ở các địa phương và ngoài công lập chất lượng không đảm bảo gây bức xúc, bất bình trong nhân dân. Đề nghị Bộ trưởng cho biết nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp khắc phục tình trạng trên?

Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời:


1. Về việc thành lập, nâng cấp các trường đại học, cao đẳng

Sau 23 năm đổi mới của đất nước và 9 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, giáo dục đại học nước ta đã từng bước phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo, nguồn lực xã hội được huy động nhiều hơn và đạt được nhiều kết quả tích cực, cung cấp hàng triệu lao động có trình độ cao đẳng, đại học, hàng vạn nhân lực có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cho đất nước. Đây là lực lượng chủ lực, nòng cốt phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an ninh quốc phòng và hội nhập kinh tế quốc tế.

So với năm 1987, sau 23 năm số lượng cơ sở giáo dục đại học ở nước ta tăng hơn 3 lần (376 trường đại học, cao đẳng với 61.150 giảng viên so với 101 trường đại học, cao đẳng và 20.212 giảng viên; 6.217 giảng viên là tiến sĩ so với 2.041, 2.286 GS, PGS so với 526 GS, PGS); năng lực đào tạo (quy mô đào tạo) tăng gần 13 lần (1,7 triệu sinh viên so với 133.136 sinh viên).

Trong 12 năm qua (từ năm 1998 đến tháng 9/2009), Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định thành lập mới 33 trường đại học (2 trường công lập và 31 trường ngoài công lập) và nâng cấp 54 trường cao đẳng thành đại học (51 trường đại học công lập và 3 trường đại học ngoài công lập). Cả nước đã có 35/63 tỉnh, thành phố có thêm trường đại học mới, trong đó: 23 tỉnh có thêm 1 trường; 10 tỉnh có thêm 2-3 trường; riêng thành phố Hồ Chí Minh có thêm 18 trường đại học và Hà Nội (mở rộng) có thêm 23 trường, chiếm tỷ lệ 43% số trường đại học thành lập mới và nâng cấp.

Việc thành lập mới các trường đại học nói trên là nhằm tăng quy mô và từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trình độ đại học, theo đúng định hướng quy hoạch mạng lưới các trường đại học cao đẳng của Thủ tướng Chính phủ, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của từng vùng và cả nước, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục của Đảng ta.

Đến nay, đã có 40/63 tỉnh, thành phố có trường đại học (đạt tỷ lệ 63%); có 60/63 tỉnh, thành có trường cao đẳng (đạt tỷ lệ 95%) và có 62/63 tỉnh, thành có ít nhất 1 trường cao đẳng hoặc đại học (đạt tỷ lệ 98%, trừ tỉnh Đăk Nông chưa có trường đại học, cao đẳng nào). Số lượng trường đại học, cao đẳng ở các vùng cao, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đã tăng lên, như Tây Bắc (1 trường đại học, 8 trường cao đẳng); Tây Nguyên (3 trường đại học, 10 trường cao đẳng); đồng bằng sông Cửu Long (11 trường đại học, 27 trường cao đẳng), tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân có cơ hội tiếp cận với giáo dục đại học, nhất là ở khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa, miền núi, con em đồng bào dân tộc thiểu số. Các trường đại học, cao đẳng công lập đã giữ được vai trò nòng cốt trong đào tạo nguồn nhân lực (tổng quy mô đào tạo đại học, cao đẳng năm học 2008 - 2009 là 1.719.499 sinh viên, quy mô các trường công lập là 1.501.310 sinh viên, chiếm tỷ lệ 87,3%). Tổng số các đại học, cao đẳng công lập là 295, chiếm 78% tổng số đại học, cao đẳng cả nước. Các trường ngoài công lập phát triển nhanh về số lượng, năm 1997 có 15 trường đại học ngoài công lập, đến tháng 9/2009 có 81 trường (44 trường đại học và 37 trường cao đẳng ngoài công lập), tăng 5,8 lần. Quy mô đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập năm học 2008 - 2009 là 218.189 sinh viên, chiếm tỷ lệ 12,7% so với tổng số sinh viên. Các cơ sở đào tạo sau đại học trong nước đã và đang cung cấp nguồn nhân lực trọng yếu trình độ cao trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống xã hội, giữ vững an ninh và chủ quyền quốc gia. Phần lớn số tiến sĩ, thạc sĩ đào tạo trong nước là giảng viên, cán bộ nghiên cứu của các cơ sở đào tạo sau đại học và viện nghiên cứu. Số còn lại làm việc trong bộ máy quản lý nhà nước của các Bộ, ngành và địa phương.

Tuy nhiên, trong công tác thành lập trường, triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng theo Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 của Thủ tướng Chính phủ cũng còn bộc lộ những hạn chế là: Khoảng 20% trường đại học, cao đẳng (12 trường) được thành lập mới hoặc nâng cấp lên đại học từ năm 2005 trở lại đây chưa thực hiện đầy đủ các cam kết như trong Đề án khả thi thành lập trường và mở ngành tuyển sinh, chưa chuẩn bị đồng bộ 4 yếu tố về: đất đai xây dựng trường; đội ngũ giảng viên cơ hữu và thỉnh giảng; vốn đầu tư và các điều kiện đảm bảo chất lượng khác (chương trình đào tạo, thư viện, giáo trình, trang thiết bị thí nghiệm, ...).

2. Về nguyên nhân có tình trạng một số trường đại học vẫn tuyển sinh, giảng dạy khi không đạt các yêu cầu mở ngành đã cam kết

- Chưa có quy định bắt buộc về kiểm tra thực tế các điều kiện cần thiết khi cho phép mở ngành đào tạo và tuyển sinh (chỉ kiểm tra dựa theo hồ sơ). Đây là nguyên nhân căn bản nhất.

- Chế tài xử lý đối với các trường không thực hiện đúng cam kết về các điều kiện mở ngành và tuyển sinh chưa đủ mạnh. Sau khi đã tuyển sinh, Thanh tra Bộ hàng năm có kiểm tra một số trường về điều kiện đào tạo, có xử lý các cơ sở sai phạm. Thực tế 2 năm 2007-2008, Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thanh tra 19/33 trường đại học mới thành lập từ năm 1998, trong đó có 13 trường được thanh tra về các điều kiện đảm bảo giảng dạy theo quy định (cơ sở vật chất, giảng viên, chương trình đào tạo), tức là chỉ khoảng 40% số trường được kiểm tra, còn 60% không được kiểm tra. Các trường đã được thanh tra, có sai phạm được xử lý không đủ nghiêm khắc, không có biện pháp buộc các đơn vị sau đó phải kiên quyết khắc phục sai phạm. Các sai phạm về đào tạo, tuyển sinh có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 (Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xử phạt 19 trường đại học, cao đẳng tuyển sinh vượt 20% chỉ tiêu với số tiền phạt từ 40 đến 60 triệu đồng mỗi trường). Theo Điều lệ trường đại học do Thủ tướng Chính phủ ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg ngày 30/7/2003 thì Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm xử lý trường đại học làm trái điều lệ theo các mức độ: Nhắc nhở bằng văn bản; Quyết định tạm ngừng tuyển sinh; Kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ tạm ngừng hoạt động của trường; Trình Thủ tướng Chính phủ hoặc phối hợp với các cơ quan chủ quản trình Thủ tướng Chính phủ quyết định giải thể trường.

- Chưa có quy định các trường phải xây dựng chuẩn năng lực người tốt nghiệp (chuẩn đầu ra) nên chưa có cơ sở đánh giá đúng chất lượng đào tạo. Hệ thống quản lý chất lượng trong giáo dục đại học chậm được hình thành (năm 2004 Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục mới được thành lập).

- Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa tham mưu cho Chính phủ phân cấp cho UBND các cấp, các Sở Giáo dục và Đào tạo có quyền kiểm tra, thanh tra các cơ sở giáo dục đại học, trong khi theo Nghị định 49/2005/NĐ-CP thì Ủy ban nhân dân các cấp và thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo có thể và có quyền sử phạt hành chính các cơ sở giáo dục sai phạm.

- Mỗi trường đại học có hàng trăm giảng viên, hàng nghìn sinh viên nhưng lực lượng đông đảo này chưa tham gia việc tự kiểm tra, đánh giá các trường đại học tuân thủ các quy định về đào tạo, quản lý trường đại học.

3. Biện pháp khắc phục

- Thực hiện nghiêm túc quy định của Thủ tướng Chính phủ: Trường nào được thành lập 3 năm mà không đăng ký đào tạo thì phải xem xét thu hồi giấy phép thành lập trường; Trường nào được tuyển sinh nhưng 2 năm không tuyển được thì không cho phép tuyển sinh nữa.

- Việc thẩm định các điều kiện mở ngành đào tạo và cho phép tuyển sinh phải được thực hiện tại các cơ sở giáo dục, không thẩm định chỉ dựa trên hồ sơ.

- Tất cả các trường được phép tuyển sinh thì 3 năm liên tục sau đó phải được kiểm tra và xử lý sai phạm nếu có.

- Chính phủ giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố và các Sở Giáo dục và Đào tạo tham gia kiểm tra, quản lý các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn.

- Từ năm học 2009-2010, các trường phải thực hiện Thông tư 09/2009/TT-BGDĐT ngày 7/5/2009 ban hành Quy chế thực hiện công khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân (3 công khai: công khai cam kết chất lượng giáo dục và mức chất lượng thực tế được đánh giá; công khai nguồn lực của trường phục vụ cho đào tạo (giáo viên, cơ sở vật chất, chương trình...); công khai thu chi tài chính). Từ đó sinh viên và gia đình, đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý sẽ tự giám sát trường của mình. Trường nào có các ngành chưa đảm bảo các điều kiện yêu cầu để được phép mở ngành thì không được phép đào tạo ngành đó. Đến thời điểm tháng 1 của mỗi năm, trường nào không thực hiện công khai về cam kết chất lượng đào tạo, về nguồn lực phục vụ đào tạo và về tài chính theo hướng dẫn của Bộ thì sẽ không được phép tuyển sinh năm học đó. Ngày 27/10/2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có công văn số 9535/BGĐT-KHTC yêu cầu các trường đại học, cao đẳng báo cáo các nội dung thực hiện 3 công khai và đến tháng 1/2010, nếu trường nào không thực hiện sẽ không cho phép tuyển sinh năm 2010.

- Thực hiện Quy chế đánh giá và kiểm định chất lượng bắt buộc đối với các trường đại học, cao đẳng thực hiện việc sinh viên tham gia đánh giá giảng viên qua môn học, triển khai việc giảng viên, cán bộ, công chức trong trường đánh giá định kỳ lãnh đạo các khoa và nhà trường.

Đồng chí Huỳnh Nghĩa, Đại biểu Quốc hội Thành phố Đà Nẵng: Các giáo sư có tên tuổi trong nước và báo cáo nghiên cứu của Đại học Harvard nhận xét rằng“Khủng hoảng giáo dục đại học Việt Nam” và coi cải cách hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng ở Việt Nam là yêu cầu khẩn cấp và căn bản. Chính phủ đánh giá như thế nào về ý kiến đó, giải pháp để khắc phục tình trạng trên ra sao?

Được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trả lời như sau: Hai tác giả của bản báo cáo có tiêu đề “Giáo dục đại học Việt Nam: khủng hoảng và phản ứng” là những người không có bằng tiến sĩ, chưa từng giảng dạy ở Đại học Mỹ, chưa bao giờ quản lý một khoa của bất cứ một trường đại học nào. Họ chưa bao giờ là giảng viên đại học, chưa bao giờ là người quản lý một đại học. Họ không có năng lực, kinh nghiệm và tư cách của chuyên gia về giáo dục để phản ánh về giáo dục của Mỹ cũng như của Việt Nam. Họ cho rằng giáo dục đại học Việt Nam khủng hoảng nhưng không hề xuất phát từ một định nghĩa “khủng hoảng giáo dục” là gì, định nghĩa đó được các tổ chức nào có tư cách thừa nhận.

Trong khi đó, Giáo sư Neal Koblitz thuộc Trường Đại học Washington ở Mỹ - nhà toán học nổi tiếng với nhiều công trình về Lý thuyết số và Mật mã học hiện đại, vừa nhận giải thưởng RSA® Conference 2009 về Toán học của Hoa Kỳ đã có ý kiến khác, phản bác lại bản báo cáo nói trên. Trong bài viết của mình, GS Koblitz cho rằng bản báo cáo này có “những nhận xét mang tính miệt thị”, “phán xét tiêu cực”, “giọng điệu của báo cáo mang tính chất trịch thượng, ra vẻ quan trọng và dạy bảo” là một biểu hiện của chủ nghĩa thực dân mới. Ông chỉ ra rằng các tác giả của bản báo cáo này, một người có bằng thạc sĩ về Hành chính công và một người chỉ đã theo các khoá học đại học về lịch sử và ngôn ngữ Việt Nam thì liệu “có đủ trình độ để chỉ bảo cho Chính phủ Việt Nam nên làm gì hay không?” và “có đủ tư cách để đưa ra các phán xét tiêu cực về các nhà khoa học và các quan chức đã từng theo học ở các nước xã hội chủ nghĩa hay không?”. Việc Viện Ash của Trường Harvard và chương trình học giả Fulbright của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cử họ đến Việt Nam như là các “chuyên gia” về đào tạo bậc cao “là một ví dụ của cái gọi là chủ nghĩa thực dân kiểu mới…” (Xin gửi kèm theo toàn văn bài viết của GS Koblitz để đồng chí tham khảo).

Trong số hơn 300 giáo sư Việt Nam hiện nay đại đa số chưa bao giờ có nhận xét là giáo dục đại học Việt Nam khủng hoảng.

Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XII, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về Sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học, các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục đại học (Báo cáo số 760/BC-BGDĐT ngày 29 tháng 10 năm 2009) và báo cáo này cũng đã được gửi đến các đại biểu Quốc hội. Báo cáo đã khẳng định: Sau 23 năm đổi mới của đất nước và 9 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, giáo dục đại học nước ta đã từng bước phát triển rõ rệt về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo, nguồn lực xã hội được huy động nhiều hơn và đạt được nhiều kết quả tích cực, cung cấp nguồn lao động chủ yếu có trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an ninh quốc phòng và hội nhập kinh tế quốc tế.

Báo cáo đã nêu những thành tựu nổi bật của giáo dục đại học Việt Nam: Cung cấp hàng triệu nhân lực có trình độ cao đẳng, đại học, hàng vạn lao động có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cho đất nước, đây là lực lượng chủ lực, nòng cốt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, của phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Năng lực đào tạo đại học của hệ thống giáo dục tăng hơn 3 lần (376 trường đại học, cao đẳng với 61.150 giảng viên năm 2009 so với 101 trường đại học, cao đẳng với 20.212 giảng viên năm 1987, 6.217 giảng viên là tiến sĩ so với 2.041, 2.286 GS, PGS so với 526 GS, PGS), quy mô đào tạo tăng gần 13 lần (1,7 triệu sinh viên so với 133.136 sinh viên). Hệ thống cơ sở đào tạo đại học đã phủ gần kín cả nước (62/63 tỉnh, thành phố đã có đại học hoặc cao đẳng). Đầu tư của nhà nước cho giáo dục đại học tăng nhanh, cơ chế tài chính cho giáo dục đại học đã bắt đầu được đổi mới. Nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục đại học tăng nhanh (có 81 trường đại học, cao đẳng ngoài công lập, chiếm 21,5% số trường). Đã bắt đầu hình thành hệ thống quản lý chất lượng giáo dục đại học trong cả nước và cơ chế nhà nước, nhà trường và người dân giám sát chất lượng giáo dục và đầu tư cho giáo dục. Quan hệ quốc tế phát triển tương đối nhanh cả cấp quốc gia và cấp trường.

Đồng thời, báo cáo cũng chỉ rõ những hạn chế chủ yếu của giáo dục đại học, đó là: Việc quản lí nhà nước về giáo dục đại học còn nhiều bất cập, trì trệ, là nguyên nhân cơ bản của việc chất lượng giáo dục đại học không có cải thiện đáng kể trên diện rộng. Nếu không có giải pháp kiên quyết, có tính đột phá, chất lượng giáo dục đại học sẽ ngày càng tụt hậu trước đòi hỏi của phát triển đất nước. Chất lượng giáo dục đại học nói chung, trong đó đặc biệt là đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ còn nhiều hạn chế, đang và sẽ còn gây hậu quả cho nền kinh tế trong thời gian tương đối dài. Phương pháp quản lý nhà nước đối với các trường đại học, cao đẳng chậm được thay đổi, không đảm bảo yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo của toàn hệ thống, chưa phát huy mạnh mẽ được sự sáng tạo của đội ngũ nhà giáo, các nhà quản lý và sinh viên. Chất lượng nguồn nhân lực đang là một khâu yếu kém, kéo dài của toàn bộ hệ thống kinh tế.

Để từng bước mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục đại học và chất lượng nguồn nhân lực, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và đang chỉ đạo thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó tập trung vào 3 nhóm giải pháp cơ bản sau:

1) Đổi mới quản lý hệ thống giáo dục đại học

- Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật  do Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành liên quan đến hoạt động của nhà trường: các quy chế, quy định về đào tạo, tuyển sinh, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, quản lý tài chính, tuyển dụng, quản lý sinh viên...

- Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về việc phối hợp và phân cấp quản lý giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Bộ ngành khác và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố đối với các trường đại học, cao đẳng.

- Kiểm tra việc các cơ sở giáo dục thực hiện Thông tư 09/2009/TT-BGDĐT ngày 7/5/2009 ban hành Quy chế thực hiện công khai (3 công khai) đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân gắn với chỉ tiêu tuyển sinh năm 2010 và các năm sau.

- Các trường đại học, cao đẳng thực hiện tự chủ và phải tự chịu trách nhiệm về phát triển của trường: Rà soát và hoàn thiện tất cả các quy định, quy chế của nhà trường, thực hiện 3 công khai, thực hiện tuyển dụng theo hợp đồng, trả lương gắn với hiệu quả đóng góp, kiện toàn các cơ quan quản lý của nhà trường.

- Đổi mới quy chế thẩm định và cho phép mở ngành, tuyển sinh của các trường đại học cao đẳng. Phải kiểm tra trực tiếp tại cơ sở giáo dục trước khi được mở ngành 3 tháng; 3 năm sau đó mỗi năm kiểm tra lại 1 lần.

- Hoàn thiện quy định về Hội đồng trường và quan hệ giữa Hội đồng trường, Ban giám hiệu, Đảng uỷ trường, các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội.

- Xây dựng quy định về hoàn thiện việc đánh giá quản lý giáo dục đại học: Sinh viên tham gia đánh giá giảng dạy của giảng viên, giảng viên tham gia đánh giá hoạt động của lãnh đạo trường; các đại học, cao đẳng tham gia đánh giá chỉ đạo, quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ chủ quản và Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố nơi trường đóng, triển khai từ 5/2010.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn và yêu cầu các trường đại học, cao đẳng xây dựng chuẩn đầu ra (năng lực, trình độ, phẩm chất của người tốt nghiệp đại học của trường) cho tất cả các ngành đào tạo của mình.

- Triển khai Nghị định của Chính phủ về đổi mới cơ chế tài chính giáo dục theo Nghị quyết số 35/2009/QH12 của Quốc hội, các trường cần xây dựng kế hoạch dài hạn 2010-2014, sử dụng phần thu học phí tăng thêm để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ quá trình đào tạo, nâng cao năng lực quản lý và chăm lo cho giảng viên để có tác dụng rõ rệt nâng cao chất lượng đào tạo.

- Rà soát, cập nhật quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng trong cả nước, triển khai xây dựng các khu đại học tập trung được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

2) Nâng cao chất lượng và chuẩn hoá các đầu vào của hệ thống giáo dục đại học

- Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên: Triển khai thực hiện nghiêm túc chế độ làm việc của giảng viên do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Thực hiện quy hoạch đào tạo giảng viên trình độ thạc sĩ, tiến sĩ đến 2020 ở tất cả các trường cao đẳng, đại học, từ năm 2010 mỗi năm cử khoảng 1.000 giảng viên làm tiến sĩ ở trong nước, 1.000 giảng viên làm thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài. Từ năm học 2009-2010, thực hiện sinh viên tham gia đánh giá giảng dạy của giảng viên. Các giảng viên đại học đều có kế hoạch đến năm 2012 mỗi giảng viên có thể sử dụng tốt ít nhất một ngoại ngữ cho đào tạo và nghiên cứu khoa học.

- Chuẩn hoá và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo: Thông qua Hội đồng Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng và Trưởng khoa cùng nhóm ngành để thống nhất các chương trình đào tạo khung của các ngành do các trường đào tạo, phân công viết giáo trình dùng chung cho các trường; tham khảo các chương trình tương tự của các trường tiên tiến ở nước ngoài; xây dựng đề án hình thành hệ thống thư viện điện tử chuẩn hoá, hiện đại, liên thông.

- Chuẩn hoá và đảm bảo đủ giáo trình đại học: Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy chế biên soạn giáo trình đại học. Các trường rà soát tình hình giáo trình, phối hợp với Hội đồng Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng và Trưởng khoa cùng nhóm ngành để biên soạn giáo trình dùng chung. Phấn đấu đến năm 2012 tất cả các trường đều có đủ giáo trình cho mỗi ngành đào tạo.

- Chuẩn hoá đội ngũ lãnh đạo các trường đại học, cao đẳng toàn quốc: Hoàn thiện và tiếp tục chương trình bồi dưỡng Hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng, phấn đấu từ tháng 12/2011 trở đi tất cả Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng đương nhiệm phải qua chương trình bồi dưỡng Hiệu trưởng.

- Triển khai mạnh mẽ chương trình xây dựng ký túc xá sinh viên, đảm bảo mục tiêu 60% sinh viên có chỗ ở tại ký túc xá vào năm 2020.

- Thực hiện thi và xét tuyển vào đại học nghiêm túc, thực hiện tốt chương trình cho vay để học, nhằm thu hút thanh niên có chất lượng và đạo đức tốt vào học ở các trường đại học, cao đẳng.

- Tổ chức hội nghị đánh giá đào tạo theo tín chỉ, xây dựng phần mềm quản lý đào tạo theo tín chỉ dùng chung cho các trường đại học, cao đẳng, phấn đấu đến năm 2012 tất cả các trường đại học, cao đẳng đều đã triển khai hoặc có kế hoạch triển khai đào tạo theo tín chỉ.

3) Đẩy mạnh hợp tác quốc tế

- Chủ động phối hợp với các tổ chức kiểm định chất lượng ở các nước tiên tiến, với các nước OECD để hình thành nhanh hệ thống các cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục của nhà nước và các tổ chức kiểm định độc lập của các cá nhân, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Phấn đấu đến năm 2012 hình thành ít nhất 3 tổ chức kiểm định độc lập của các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước, do Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép hoạt động theo chuẩn mực quốc tế.

- Triển khai Đề án nâng cao chất lượng đào tạo và sử dụng ngoại ngữ ở Việt Nam tới năm 2020 để ngoại ngữ là thế mạnh của người Việt Nam.

- Phối hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ WB, ADB để triển khai các dự án vốn vay xây dựng các đại học xuất sắc theo chuẩn mực quốc tế.

- Xây dựng và triển khai đề án thu hút người Việt Nam ở nước ngoài, các nhà khoa học nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học ở các trường đại học, cao đẳng của Việt Nam.
Tóm lại, mặc dù còn nhiều hạn chế, yếu kém, với các thành tựu đã đạt được: sau 23 năm đổi mới, với các giải pháp đổi mới đã nêu ở trên, giáo dục đại học của Việt Nam không khủng hoảng mà sắp tới sẽ có bước phát triển mạnh mẽ hơn, chất lượng được nâng cao và quy mô sẽ tiếp tục được mở rộng.

Bộ GD&ĐT

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Ứng dụng nano berberin để tạo các chế phẩm chăm sóc răng miệng.

Nano berberin ức chế vi khuẩn gây sâu răng

GD&TĐ - Ứng dụng nano berberin để tạo các chế phẩm chăm sóc răng miệng, do có khả năng ức chế sự phát triển của vi khuẩn S.mutans - tác nhân chính gây sâu răng.