Bỏ mất cơ hội đánh chặn quân nhà Tây Sơn nên Thoại Ngọc Hầu bị chúa Nguyễn bắt tội, giáng xuống làm Cai đội quản đạo Thanh Châu.
Một danh tướng mất đi cơ đồ, công danh, sự nghiệp nhưng không đánh mất tình bạn thời thơ ấu. Hành động ấy được các nhà nghiên cứu đánh giá cao vì cho rằng ông đã dám “vì nghĩa diệt thân”.
Một quê hai ngã rẽ
Dù là danh tướng nhà Tây Sơn, nhưng trong một thời gian dài giới sử học vẫn không thể thống nhất quê quán của Trần Quang Diệu. Các luồng ý kiến khác nhau cho rằng, một là ông ở xã Ân Tín (Hoài Đức – Bình Định), hai là xã Đức Lân (Mộ Đức – Quảng Ngãi), ba là làng Nam Ô (Hoà Vang – Quảng Nam).
Mãi sau này, nhờ tìm được mộ của mẹ Trần Quang Diệu ở phía Tây Nam hòn Thổ Sơn (thuộc Ngũ Hành Sơn), được lập vào tháng 3 năm Nhâm Tý (1792) và qua xác minh nhiều nguồn tư liệu (trong đó có gia phả họ Nguyễn ở làng An Hải), Bảo tàng Đà Nẵng và Hội Sử học Đà Nẵng khẳng định Trần Quang Diệu, vốn có tên Trần Văn Đạt, người làng An Hải, thuộc quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng, là con trai của ông Trần Tấn và bà Phan Thị Hy.
Ở làng An Hải vẫn còn lưu giữ câu chuyện về tình bạn son sắt, cảm động giữa Trần Quang Diệu và Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu). Lúc còn nhỏ hai người là đôi bạn thân thiết. Nhưng vì loạn lạc nên phải lưu lạc ở hai nơi khác nhau, Nguyễn Văn Thoại phải theo cha mẹ vào sống tại Cù Lao Dài trên sông Cổ Chiên (Vĩnh Long) rồi tình nguyện theo phò Nguyễn Phúc Ánh khi mới 16 tuổi.
Gia đình Trần Quang Diệu cũng bỏ xứ về quê ngoại ở làng Trà Khê, nay thuộc quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng rồi vào Bình Định gia nhập nghĩa quân Tây Sơn. Khi biết tin nhau thì hai ông đã ở hai bên chiến tuyến.
Cả hai đều có tính khí kiên cường, bất khuất nên sớm trở thành tướng tâm phúc của Nguyễn Phúc Ánh và Nguyễn Huệ. Nguyễn Văn Thoại làm đến chức Khâm sai Bình tây Đại tướng quân, tước Hầu. Còn Trần Quang Diệu cũng được phong làm chức Thái phó và là một trong những vị quan trụ cột của nhà Tây Sơn. Là võ tướng 2 triều thù địch nhưng suốt 25 năm họ không bao giờ đối địch nhau.
Năm 1801, lúc Nguyễn Văn Thoại mang quân từ Lào tiến đánh Phú Xuân thì nghe tin Trần Quang Diệu từ Quy Nhơn cầm binh ra tiếp cứu. Không muốn đối đầu với bạn, tướng Nguyễn Văn Thoại đã giao binh quyền cho Phó tướng của mình là Lưu Phước Tường rồi bỏ vào Gia Định. Vì việc này mà Thoại Ngọc Hầu bị trách phạt rất nặng nề, bị giáng xuống làm Cai đội quản đạo Thanh Châu.
“Sinh Nguyễn, tử Trần”
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh đã lên ngôi và lấy hiệu Gia Long chiêu hàng Trần Quang Diệu. Tướng nhà Tây Sơn đáp: Trung thần không thờ hai vua, nay tôi bị bắt thì chỉ có tội chết. Nếu nhà vua mới rộng lượng tha cho, như trước đây tôi đã tha cho các tướng ở Quy Nhơn thì tôi sẽ về ở nơi thôn dã, cày ruộng, nộp thuế như người thường dân, chứ nhận chức quan của triều đại mới thì không phải là trượng phu.
Biết không thể khuất phục được Trần Quang Diệu, vua nhà Nguyễn xử ông tội chết và chịu án tru di tam tộc. Thoại Ngọc Hầu biết tin liền bí mật báo cho họ Trần ở An Hải đào thoát khỏi làng, thay tên đổi họ để tránh sự truy sát của triều Nguyễn. Những người trong gia đình Trần Quang Diệu được Thoại Ngọc Hầu nhận về nuôi, đổi thành họ Nguyễn.
Tuy nhiên, để giữ gốc tích, con cháu của Trần Quang Diệu khi sống thì mang họ Nguyễn nhưng khi chết lại đề trên bia mộ là họ Trần. Tục “sinh vi Nguyễn, tử vi Trần” vẫn còn nhiều người ở làng An Hải giữ gìn cho đến ngày nay.
Một số tài liệu cho rằng, chính Thoại Ngọc Hầu đã bí mật cho người về quê, giao cho vợ thứ là bà Nguyễn Thị Hiền trích ra 3/18 mẫu ruộng đang cai quản để lo hương hỏa, thờ tự danh tướng Tây Sơn bạn mình. Trước đó, vào năm 1793, khi quê nhà còn nằm trong lãnh địa của triều Tây Sơn nhưng Thoại Ngọc Hầu vẫn bí mật cho người đưa tiền về làng An Hải trao cho thân tộc lo việc trùng tu, tôn tạo chùa An Phước.
Không chỉ trọng tình bạn, Thoại Ngọc Hầu còn là người có công lớn khai phá vùng đất Tây Nam Bộ, khẩn hoang lập ấp, đào kinh, đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất mới, đặt nền móng cai trị lâu dài của nước ta trên vùng đất biên viễn.
Năm 1818, ông phụng mệnh thiết kế, tổ chức đào kênh nối Đông Xuyên - Rạch Giá dài hơn 12 km, hoàn thành trong thời gian 4 tháng. Biểu dương công trạng của Thoại Ngọc Hầu, vua Gia Long đặt tên cho kênh này là Thoại Hà và đặt tên cho ngọn núi phía đông là Thoại Sơn.
Một năm sau, ông cùng Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu, Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Văn Tồn được lệnh vua Minh Mạng cho đào một con kênh nối liền Châu Đốc - Hà Tiên. Đây là một công trình lớn do ông thiết kế và đốc suất quân dân làm việc với số nhân công lớn gồm 80.000 người, gần 5 năm (1819 - 1824) mới hoàn thành.
Công trình này là thành quả lớn lao của tập thể nhân dân mà người lãnh trách nhiệm chính với triều đình chính là ông. Nói về lợi ích của con kênh này, sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn viết: “Từ ấy đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước, phòng giữ ngoài biên, cho tới nhân dân buôn bán đều được tiện lợi vô cùng”.
Sau khi hoàn thành công trình thủy lợi, giao thông và quốc phòng ở biên giới Tây Nam này, Nguyễn Văn Thoại được vua Minh Mạng đặc ân cho lấy tên vợ ông (bà Châu Thị Vĩnh Tế) đặt tên cho con kênh là Vĩnh Tế. Năm 1836, vua cho đúc Cửu đỉnh làm quốc bảo, hình kênh Vĩnh Tế được chạm vào đỉnh. Đây là một di vật đối với cá nhân ông cũng như tập thể nhân dân tham gia vào công trình đào kênh Vĩnh Tế.
Nỗi oan chín suối
Thoại Ngọc Hầu mất tại Châu Đốc ngày 6/6/1829 khi đang ở nhiệm sở, thọ 68 tuổi, an táng tại chân núi Sam thuộc thị xã Châu Đốc (An Giang). Với những công lao rất lớn, ông được vua Minh Mạng truy phong Tráng Võ tướng quân, Trụ quốc Đôn thống.
Thế nhưng, theo sách “Đại Nam chính biên liệt truyện”, sau khi ông mất, tấm lòng son sắt vì nước, vì dân của vị khai quốc công thần Nguyễn Văn Thoại gần như bị chính vua Minh Mạng phủi sạch khi nghe Võ Du ở Tào hình Bộ tố cáo ông vì tội nhũng nhiễu của dân nhiều khoản.
Triều đình nghị án, ông bị truy giáng tước xuống hàm ngũ phẩm, con ông là Nguyễn Văn Tâm bị lột ấn hàm, tất cả điền sản đều bị tịch thu phát mãi. Người con rể là Võ Vĩnh Lộc theo Lê Văn Khôi khởi nghĩa chống lại triều đình. Cuộc khởi nghĩa bị dẹp tan, vợ chồng Lộc bị bắt, vua Minh Mạng yêu cầu bộ Hình điều tra mối quan hệ giữa Lộc và ông.
Sau này, khi mọi việc được phơi bày, nhưng ông vẫn chưa được giải oan. Mãi đến ngày 25/7/1924, vua Khải Định mới xét lại và chính thức truy phong ông là Đoan Tức Dực Bảo Trung Hưng Tôn Thần.
Cồn Lăng làng An Hải ngày xưa nay là khu vực Trường chuyên Lê Quý Đôn. Tại khuôn viên Trường Lê Quý Đôn hiện vẫn còn đàn thờ Thần Nông. Năm 2002, khi xây dựng Trường Lê Quý Đôn, Sở VHTT TP Đà Nẵng và tộc Trần làng An Hải đã di dời mộ Trần Quang Diệu về bên cạnh đền thờ Tiền Hiền Thoại Ngọc Hầu. Bia mộ ghi: Con cháu nội ngoại Trần Nguyễn đồng phụng lập.
Thoại Ngọc Hầu rất nặng tình nặng nghĩa với quê hương, với bạn bè nên nhân dân làng An Hải luôn dành cho ông sự ngưỡng mộ, tôn kính. Làng An Hải ngưỡng mộ, tôn vinh ông, mở lễ hội kỷ niệm ông nhân ngày sinh, ngày kỵ giỗ mà tên ông đã thành tên đường ở Đà Nẵng và TPHCM.
Trên án thờ Thoại Ngọc Hầu ở làng An Hải có đôi câu đối: Nhất sinh công nghiệp truyền biên tái/Thiên tải tinh thần nhiên cố hương. Dịch nghĩa: Một đời công nghiệp truyền biên tái/Muôn thuở tinh thần rạng cố hương.
Đền thờ Thoại Ngọc Hầu được dân làng An Hải và họ tộc xây dựng vào nửa trước thế kỷ XIX, toạ lạc bên bờ Hàn Giang, bao gồm đại điện, hậu tẩm, sân vườn, hồ sen nhân tạo phía trước làm minh đường, kiến trúc truyền thống xứ Quảng.
Năm 1959 và năm 1974 được trùng tu, tôn tạo nguyên trạng nhưng thay thế vật liệu và kỹ thuật mới, có trụ, vữa xi măng cốt sắt. Đại điện kiến trúc ba gian hai chái. Gian giữa đặt hương án, bài vị thờ Thoại Ngọc Hầu và nhị vị phu nhân - bà Châu Thị Vĩnh Tế và bà Nguyễn Thị Hiền. Hai gian tả - hữu thờ Hậu Hiền của làng.