Biến những bài học khô khan thành hứng thú

GD&TĐ - Những bài học khô khan cũng có thể trở nên vô cùng hứng thú và hấp dẫn dưới sự dẫn dắt sinh động, tài tình của giáo viên.

Biến những bài học khô khan thành hứng thú

Để thực hiện được điều này, GS.TS Lê Phương Nga (Khoa Giáo dục tiểu học, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội) đã chia sẻ những nhóm biện pháp cơ bản nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh tiểu học.

Tạo hứng thú bằng tác động vào nội dung dạy học

Từng giờ, từng phút trong giờ tiếng Việt, người giáo viên đều hướng đến hình thành và duy trì hứng thú cho học sinh. 

không có con đường nào khác để làm nảy sinh và duy trì hứng thú của học sinh với tiếng Việt và Văn học ngoài cách giúp các em thấy được sự thú vị, vẻ đẹp và khả năng kì diệu của chính đối tượng học tập - tiếng Việt, văn chương. Đây cũng chính là ngữ liệu của dạy tiếng.

Theo GS.TS Lê Phương Nga, đó có thể là một lời vào bài hấp dẫn cho giờ tập đọc: “Đây là một con chim sẻ rất nhỏ bé. Thế nhưng nhà văn Tuốc-ghê-nhép đã kính cẩn nghiêng mình thán phục trước nó, vì sao vậy? Chúng ta hãy cùng nhau đọc bài Con sẻ để trả lời câu hỏi này”.

Hứng thú của học sinh cũng được khơi dậy từ việc chỉ ra vẻ đẹp của một từ, cái hay của một tình tiết truyện, chẳng hạn: Tiếng hót của chim chiền chiện không phải “ríu rít”, “thánh thót” mà “ngọt ngào”, “long lanh”, “chan chứa” thì mới gây ấn tượng.

Hoa sầu riêng nở “tím ngát” chứ không phải chỉ “tím ngắt” hay “ngan ngát”. Như thế thì mới có cả màu hoa, hương hoa chỉ trong một từ…

Ngay cả những vấn đề lí thuyết ngữ pháp khô khan cũng đều có thể gây hứng thú cho học sinh nếu chúng ta biết lựa chọn ngữ liệu khai thác những đặc điểm thú vị của tiếng Việt.

Chẳng hạn, đó là mối quan hệ giữa kiểu nghĩa và cấu tạo từ, giá trị gợi tả gợi cảm của lớp từ láy, quy luật chuyển nghĩa của từ nhiều nghĩa; khả năng tạo những “định danh nghệ thuật”, “đồng nghĩa kép” của hiện tượng đồng nghĩa, sự bất ngờ thú vị của hiện tượng đồng âm.

Bài tập phân tích nghĩa của câu cũng sẽ thú vị hơn nếu giáo viên sử dụng ngữ liệu đồng âm, đặc biệt là đồng âm cú pháp.

Ngữ liệu tiếng Việt trở nên hấp dẫn khi thể hiện tính năng sản của ngôn ngữ. Ví dụ, tiếng học, từ tay... hoàn toàn trở thành ngữ liệu hấp dẫn trong các bài tập: “Tìm các từ có chung tiếng học”, “Tìm thành ngữ, tục ngữ cùng chứa từ tay”...

Vì tiếng học có mặt trong rất nhiều từ ngữ: học bạ, học bổng, học cụ, học đòi, học đường, học gạo, học giả, học hành, học hỏi, học kì, học lỏm, học phí, học sinh, học tập... ; từ tay xuất hiện trong 21 thành ngữ, tục ngữ.

Ngữ liệu hấp dẫn phản ánh được nét độc đáo của tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập mà phương thức ngữ pháp chủ yếu là trật tự từ. 

Với bài tập yêu cầu học sinh sắp xếp các từ cho trước để tạo câu, nên chọn những từ có khả năng sắp xếp thành nhiều câu khác nhau, ví dụ nếu chọn 5 từ sao, nó, không, đến, bảo có khả năng tạo thành trên 50 câu khác nhau.

Những kiến thức ngữ pháp nên được xem xét dưới góc độ của người sử dụng ngôn ngữ sẽ gây được hứng thú. Ví dụ, dạy bài “Danh từ riêng” có thể bắt đầu bằng cách nhận xét về cách đặt tên của người Việt.

Khi dạy “Đại từ nhân xưng”, có thể cho học sinh nhận xét về văn hoá của người Việt trong cách xưng hô. Học sinh chưa hiểu hết được sự tế nhị trong cách xưng hô của người Việt và không phải em nào cũng biết xưng hô với bạn bè, cha mẹ, người thân một cách có văn hoá nên phát hiện này đối với các em cũng là điều thú vị.

Hứng thú với trò chơi học tập

Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, GS.TS Lê Phương Nga cho rằng, hứng thú của học sinh còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em.

Trò chơi học tập nhất thiết phải là một bộ phận của nội dung bài học, phải là một phần cấu tạo nên bài học. Trong trò chơi, khi mọi thứ đều thật, chẳng hạn trong môn Tiếng Việt, từ vẫn là từ, câu vẫn là câu, trò vẫn là trò, thầy vẫn là thầy..., trò chơi sẽ bớt phần thú vị.

Đó chính là cách tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học...

Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích thích sự phát triển trí tuệ của các em.

Trò chơi cuốn hút trẻ em hơn nếu có được sự giả định từ tên gọi, từ người tham gia, từ tình huống đến kết quả chơi.

Ví dụ nhóm trò chơi Trong vườn cổ tích đã khai thác tính giả định của trò chơi từ nguồn văn bản truyện cổ.

Khi đó, trò chơi vừa minh hoạ sinh động kiến thức, kĩ năng tiếng Việt, vừa tạo ra được một không khí cổ tích huyền diệu, gợi lại nội dung các văn bản truyện cổ mà học sinh đã học ở phân môn Tập đọc hay Kể chuyện.

Ví dụ, từ truyện Tấm Cám, xây dựng trò chơi “Chim sẻ giúp cô Tấm” dành cho các bài tập nhận diện, phân loại,... Từ truyện Sơn Tinh Thuỷ Tinh, có thể xây dựng trò chơi “Dâng núi chống lụt” cho những bài tập chính tả, làm giàu vốn từ,...

Có thể kể vào trò chơi học tập hoạt động sắm vai. Đây là một trò chơi có nhiều lợi thế để dạy học Tiếng Việt.

Sắm vai trong dạy học là nhận một vai giao tiếp nào đó nhằm thể hiện sinh động nội dung học tập. Hình thức học tập sắm vai nhiều khi rất vui nhờ những chi tiết hài hước, ngộ nghĩnh do những “diễn viên bất đắc dĩ” tạo nên.

Hình thức sắm vai đặc biệt phát huy tác dụng trong các giờ tập làm văn rèn kĩ năng nói, nó giúp học sinh được thực hành giao tiếp, được quan sát trực tiếp hoạt động nói với sự kết hợp sinh động của phương tiện âm thanh và các yếu tố phi ngôn ngữ.

Tổ chức hoạt động học theo nhóm

Học theo nhóm là hình thức học tập có sự hợp tác của nhiều thành viên trong lớp nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập chung. Được tổ chức một cách khoa học, học theo nhóm sẽ phát huy tính tích cực, sáng tạo, năng lực, sở trường, tinh thần và kĩ năng hợp tác của mỗi thành viên trong nhóm.

Trong giờ học Tiếng Việt, biện pháp này đã tạo nên một môi trường giao tiếp tự nhiên, thuận lợi, đó là hoạt động giao tiếp nhằm trao đổi, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của những người bạn.

Tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học

Trong dạy học truyền thống, dạy học ngoài không gian lớp học hay lớp học mở được hiểu rất rộng bao gồm các cuộc dã ngoại, các hoạt động ngoại khóa, các câu lạc bộ, các cuộc thi thử tài.

Đi sâu vào hình thức dạy học ngoài trời, GS Lê Phương Nga cho rằng, dạy học ngoài trời giúp học sinh tìm hiểu rất nhiều kiến thức, kĩ năng từ cuộc sống.

Đây là một hình thức tổ chức dạy học có nhiều lợi thế để phát triển năng lực giao tiếp cho học sinh, một năng lực cần thiết cho tất cả mọi môn học.

Việc thiết kế các hoạt động học tập giúp học sinh hứng thú học toán là sự thể hiện tổng hợp các ý tưởng về phương pháp dạy học. 

Người thiết kế không chỉ xác định đúng đắn mục tiêu học tập, mà còn phải chú ý các yếu tố về tâm lý học, về giáo dục học và hiểu rõ vốn kiến thức thực tiễn của học sinh để phối hợp tốt với các thủ thuật, kỹ thuật thể hiện nội dung toán học, tạo ra các kích thích hợp lý để học sinh tự học.

Xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và trò, trò và trò

Bên cạnh việc tác động vào nội dung và phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy và trò, giữa các trò cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả thầy và trò.

Việc chú trọng vào mặt thành công của trẻ đòi hỏi giáo viên phải xây dựng các nhiệm vụ dạy học sao cho bảo đảm để các em có những thành công chắc chắn đầu tiên chứ không phải là những thất bại cay đắng đầu tiên. 

Giáo viên phải thường xuyên tìm hiểu học sinh muốn việc học diễn ra như thế nào, cái gì làm các em thích, cái gì làm các em không thích để có thể tổ chức quá trình dạy học như các em mong đợi.

Để tạo hứng thú cho học sinh, người giáo viên tiểu học cần biết tổ chức quá trình dạy học theo một chiến lược lạc quan: Chú trọng vào mặt thành công của trẻ.

Đồng thời, cần tập cho mình có một cách nhìn: Học sinh tiểu học em nào cũng ngoan, em nào cũng giỏi, em nào cũng cố gắng. Chỉ có em này ngoan, giỏi, cố gắng nhiều hơn, em kia ngoan, giỏi, cố gắng ít hơn mà thôi.

Giáo viên tiểu học phải có một phẩm chất đặc biệt, biết cách cư xử đặc biệt với học sinh. Đó là thái độ nâng đỡ, khích lệ, thông cảm, chú trọng vào mặt thành công của các em. Đó là khả năng biết tự kiềm chế, khả năng đồng cảm với học sinh, khả năng làm việc kiên trì tỉ mỉ.

Đó là khả năng biết tổ chức quá trình dạy học một cách nhẹ nhàng tự nhiên không gây căng thẳng cho học sinh.

Cũng cần phải biết tỏ ra ngạc nhiên, vui sướng, cần phải tôn trọng những sáng tạo của học sinh, dù rất nhỏ.

Đổi mới quan niệm và cách thức kiểm tra, đánh giá

Điều cuối cùng cần chú ý, theo GS.TS Lê Phương Nga là cách kiểm tra đánh giá. GS nhấn mạnh và khuyến cáo: Phải đánh giá, kiểm tra kết quả học tập của học sinh tiểu học theo một chiến lược dạy học lạc quan - đó là nhấn mạnh vào mặt thành công của học sinh.

Việc đòi hỏi dạy học phải nghiêm khắc và đặt ra yêu cầu cao với học sinh không có nghĩa là cho phép chúng ta khắt khe trong đánh giá và chặt chẽ khi cho điểm.

Một trong những nguyên nhân khiến học sinh không thích học là do cách đánh giá bằng lời và cho điểm của chúng ta không thỏa đáng. Đọc, viết như thế nào, giáo viên cũng có thể tìm ra chỗ “có thể chê được”.

Còn về điểm số, có cô giáo cho rằng đọc, tập viết hay viết bài tập làm văn được điểm 8 là tốt quá rồi. GS Nga cho rằng, chúng ta cần phải tự đặt ra câu hỏi:

“Ta có thể đặt ra yêu cầu gì với học sinh tiểu học để đánh giá, cho điểm hợp lí đặng khuyến khích, kích thích học sinh học tốt hơn?”.

Đạt được thành công trong học tập sẽ tạo ra hứng thú và niềm say mê học tập của học sinh. Chỉ có thành công (chứ không phải là những thất bại cay đắng), niềm tự hào về thành công, cảm giác xúc động khi thành công mới là nguồn gốc thật sự của ham muốn học hỏi.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ