Giúp các trường xác định chính sách phát triển hợp lý
- UPM công bố xếp hạng chỉ số quy mô của các cơ sở giáo dục ĐH (CSGDĐH) năm 2019. Là người trực tiếp phụ trách hệ thống, ông có thể chia sẻ một số kết quả nổi bật?
- Chúng tôi không những đã quan tâm đến xếp hạng, mà còn muốn làm xếp hạng cho Việt Nam từ rất lâu. Sự đồng hành với xếp hạng đã giúp chúng tôi hội nhập và có định hướng tốt để đưa ĐHQGHN phát triển lên tầm quốc tế. Tuy nhiên, cố gắng mãi cũng chỉ có chưa đến 10 trường được xướng danh trong các bảng xếp hạng quốc tế. Vậy nên mình phải tạo sân chơi và công cụ đối sánh và quản trị của mình.
Mong muốn lớn nhất của nhóm là thông qua xếp hạng để cung cấp các chỉ số NC cho các CSGDĐH, giúp các trường nhận diện, đối sánh, xác định các chính sách phát triển hợp lý. Về số liệu, với sự chủ động công nghệ của hệ thống Vcgate, nhóm đã có thể chuẩn hóa tên gọi tiếng Anh khác nhau của các CSGDĐH để nâng cao độ tin cậy.
Tuy nhiên, với tình trạng ghi địa chỉ không thống nhất như hiện nay, việc thống kê chắc chắn vẫn có một số dung sai. Các trường có thể sử dụng kết quả xếp hạng này theo cách của mình, còn ý tưởng của chúng tôi là xếp kết quả theo nhóm: Top 5, top 10, top 20, top 30 và một số trường trong nhóm 30++, đừng quá so sánh với trường có thứ hạng liền kề.
Theo tiếp cận đó, Trường ĐH Tôn Đức Thắng đứng đầu bảng xếp hạng tổng thể, quy mô và năng suất NC; Trường ĐH Y Hà Nội đứng đầu về xếp hạng chỉ số trích dẫn và Trường ĐH Điện lực dẫn đầu về chỉ số công bố bằng nội lực.
Xếp hạng tổng thể nhóm 5 CSGDĐH mạnh nhất của Việt Nam vẫn chưa thay đổi so với năm 2018, chỉ có sự hoán vị các vị trí trong nhóm, trong đó Trường ĐH Tôn Đức Thắng giành ngôi quán quân. Tiếp đến là ĐHQG TPHCM, ĐHQG Hà Nội. Trường ĐH Duy Tân đã vượt qua Trường ĐH Bách khoa Hà Nội.
Tên các trường trong nhóm 5 - 10 đã có sự thay đổi nhiều, do tích hợp được đồng thời thế mạnh của cả 4 chỉ số, đặc biệt là chỉ số trích dẫn. Trong đó, có sự xuất hiện của Trường ĐH Y tế Công Cộng, Trường ĐH Y Hà Nội, Trường ĐH Cần Thơ, Trường ĐH Mỏ Địa chất và Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM.
Trong top 20, đặc biệt có tên của hai CSGDĐH lĩnh vực khoa học xã hội: Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, Trường ĐH Kinh tế TPHCM và một CSGDĐH tư thục: Trường ĐH Nguyễn Tất Thành.
Còn trong top 30, có các tên rất mới: Trường ĐH Hàng hải, Trường ĐH Nông lâm và Trường ĐH Sư phạm TPHCM đã xuất hiện nhờ có sự gia tăng số lượng trong năm 2019.
GS Nguyễn Hữu Đức |
Khích lệ quy mô nghiên cứu của các trường
- Công bố lần này là so sánh về các chỉ số NC khoa học của hơn 30 cơ sở trong cả nước, không phải tất cả các CSGDĐH Việt Nam. Như vậy, độ tin cậy của bảng xếp hạng đến đâu? Bảng xếp hạng “nội địa” này có khác gì so với các bảng xếp hạng quốc tế mà CSGDĐH Việt Nam tham gia?
- Trước hết, độ tin cậy phải nhờ đến mẫu khảo sát và cơ sở dữ liệu đủ lớn. Đó là lý do tại sao chúng tôi mới tập trung vào các trường đã có gần 200 công bố quốc tế trong 5 năm. Do vậy, số lượng các trường tham gia lần này dừng lại ở con số đó. Thực tế, các bảng xếp hạng quốc tế như QS, người ta chỉ chấp nhận các trường công bố mỗi năm khoảng 150 bài.
Theo nguyên tắc đo lường khoa học và thông lệ quốc tế, cơ sở dữ liệu (CSDL) về tổng số bài báo mà Việt Nam thường quan tâm chỉ là thông số đầu vào của việc đánh giá hoạt động NC. Việc xếp hạng thường được đối sánh theo cùng thứ nguyên, cấp độ và phải phản ánh được năng suất NC của từng giảng viên và chất lượng NC của từng bài báo.
Trong thời gian qua, vì số lượng công bố quốc tế còn ít và việc thu thập CSDL còn khó khăn nên mọi người thường đánh giá mức độ NC của các trường theo số lượng các bài báo và chỉ dựa trên các bài báo từ nguồn Web of Science hoặc Scopus riêng biệt. Do đó, việc đánh giá không đầy đủ, công bằng. Lần này, nhóm NC tiến hành đánh giá theo 4 tiêu chí với CSDL tích hợp của hai nguồn nói trên:
Tiêu chí 1: Quy mô NC - tổng số các bài báo tích hợp, đã được lọc trùng từ 2 CSDL Web of Science và Scopus của các CSGDĐH xuất bản trong giai đoạn 2015 - 2019 với trọng số 45%.
Tiêu chí 2: Năng suất NC – chỉ số bài báo trung bình trên giảng viên (và NC viên) với trọng số 25%.
Tiêu chí 3: Chất lượng NC – chỉ số trích dẫn trung bình thu thập được trong năm 2019 cho các bài báo xuất bản trong giai đoạn 2014 - 2015 với trọng số 25%.
Ảnh minh họa/ INT |
Tiêu chí 4: Chỉ số công bố bằng nội lực – Tỷ lệ phần trăm các bài báo hoàn toàn của tác giả Việt Nam với trọng số 5%.
Trong các bảng xếp hạng của QS, THE và cả ARWU, có 3 tiêu chí cuối được sử dụng và họ chỉ xếp hạng cho các trường có công bố trên 150 bài báo mỗi năm. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, kết quả công bố của các CSGDĐH của Việt Nam còn khiêm tốn, nên giai đoạn này, chúng ta cũng cần đánh giá và khích lệ quy mô NC của các trường, thúc đẩy để có thêm nhiều trường đặt ngưỡng của quốc tế.
Do đó, chỉ số này vẫn được đưa vào và thậm chí còn được đặt với trọng số rất cao (45%). Hai tiêu chí 2 và 3 đã hội nhập tuyệt đối, mỗi tiêu chí đều chiếm trọng số 25%. Riêng tiêu chí 4, tỷ lệ công bố bằng nội lực (hay ngoại lực) thường để đo mức độ hợp tác quốc tế. Càng nhiều bài báo có tên tác giả nước ngoài, người ta đánh giá điểm càng cao.
Sau này, khi tiến hành xếp hạng tổng thể các trường ĐH, chúng tôi sẽ thực hiện như vậy và sẽ coi đó là một chỉ số hợp tác quốc tế. Nhưng lần này thì ngược lại, các bài báo xuất bản bằng nội lực được ưu tiên. Đó là sự chia sẻ và ghi nhận nỗ lực của nhóm chúng tôi (và cả cộng đồng) đối với nỗ lực xác lập năng lực NC khoa học nội sinh của các CSGDĐH. Tuy nhiên, trọng số đánh giá chỉ chiếm 5%.
Nguyên tắc xếp hạng là lựa chọn CSDL nào lớn và phong phú nhất. Do vậy, các bảng xếp hạng QS và THE thường chọn CSDL Scopus. Scopus có độ bao trùm lớn hơn và ít bỏ sót các bài báo Web of Science.
Ở đây, thông qua hệ thống Vcgate của nhóm (http://vcgate.vnu.edu.vn:3000/), chúng tôi có thể tích hợp được cả CSDL của các hai hệ thống này. Đặc biệt hệ thống này cũng cho phép thu thập chỉ số trích dẫn từ nguồn Google Scholar. Như vậy, thế mạnh của cả 3 “ông lớn” về CSDL khoa học trên thế giới đều đã được UPM tích hợp. Nhờ đó, cả số lượng công bố quốc tế và số lần trích dẫn được thống kê đầy đủ hơn. Theo phân tích, chỉ số trích dẫn từ nguồn Vcgate cao hơn chỉ số thống kê riêng từ Web of Science hoặc Scopus khoảng 1,5 lần.
Điểm mới của cách xếp hạng này đã giúp xác định và tạo động lực thúc đẩy các trường phát huy thế mạnh NC. Như có thể thấy, trong top 5, trong khi chỉ số quy mô NC không khác nhiều so với kết quả xếp hạng tổng thể thì xếp hạng theo chỉ số trích dẫn và nội lực có sự thay đổi rất nhiều.
Đầu tư nghiên cứu vấn đề có tầm ảnh hưởng
- Qua kết quả xếp hạng lần này, ông rút ra nhận định cũng như bài học nào về NC khoa học trong các trường ĐH Việt Nam?
- Năm 2019 đi qua với với sự tăng trưởng mạnh hơn nữa về công bố quốc tế trong hệ thống giáo dục ĐH. Đặc biệt, ngày 30/12/2019 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2019/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ĐH, trong đó có quy định các điều kiện công nhận CSGDĐH định hướng NC. Rất cần thiết phải NC sâu hơn và xếp hạng đầy đủ hơn các kết quả mới cập nhật này.
Nghị định 99/2019 đòi hỏi trong 3 năm gần nhất, CSGDĐT công bố trung bình mỗi năm từ 100 bài báo trở lên và đạt tỷ lệ trung bình một giảng viên cơ hữu công bố mỗi năm từ 0,3 bài trở lên trên các tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới. Như vậy, nước ta đã có 17 CSGDĐT đạt và vượt chuẩn 100 bài báo/năm. Tuy nhiên, chỉ số công bố mỗi năm còn rất thấp, mới có 7 CSGDĐT đã và xấp xỉ đạt là Trường ĐH Tôn Đức Thắng, Trường ĐH Y tế Công cộng, Trường ĐH Duy Tân, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐHQG Hà Nội, ĐHQG TPHCM và Trường ĐH Mở TPHCM.
Theo thống kê và chuẩn hóa của Tổ chức QS, mức chuẩn trung bình về bài báo trên giảng viên là 5 bài/5 năm và chỉ số trích dẫn là 4,5 lần/bài. Như vậy, lần đầu tiên chúng ta đã có Trường ĐH Tôn Đức Thắng đạt chuẩn về năng suất NC của châu lục. Còn chất lượng NC thì Việt Nam có gần 20 trường đạt chuẩn trung bình châu Á. Điều này có thể gợi ý cho chiến lược phát triển của Việt Nam là không nên chạy theo số lượng mà nên tập trung vào chất lượng và đầu tư NC những vấn đề có tầm ảnh hưởng lớn.
- Xin cảm ơn GS!