Vua Đồng Khánh đã chuẩn y và đưa Châu Đình Kế lên thay Hồ Lệ để làm tuần vũ Quảng Nam.
Tháng 12-1885, triều đình của vua Đồng Khánh đã bàn bạc với quân Pháp hòng tấn công vào căn cứ sơn phòng Quảng Nam, nhằm tiêu diệt đầu não chỉ huy của cuộc kháng chiến.
Trong lúc bị truy riết, thủ lĩnh Trần Văn Dư đã phải chạy đến nương náu nhờ viên án sát của triều Đồng Khánh là Lê Văn Đạo và chính trong bước đường cùng ấy, Trần văn Dư đã nghĩ đến người học trò cũ mà ông từng dạy học nay đã trở thành vua Đồng Khánh.
Ông quyết định sẽ ra Huế để gặp triều đình thương thuyết trên tư thế của một ông thầy dạy cũ của vua đương triều và một chân tiến sĩ khoa hoạn vượt lên trên chức sắc của Nghĩa hội.
Mặt khác, vị thủ lãnh của phong trào Nghĩa hội còn nghĩ rằng: Tuần vũ Quảng Nam Châu Đình Kế ngày trước cũng từng đứng trong hàng ngũ chống Pháp như ông, từng theo Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi ra đến Tân Sở (Quảng Trị), con người ấy, bụng dạ ấy chắc không đến nỗi nào.
Theo chú thích của Nguyễn Sinh Duy trong sách “Phong trào Nghĩa hội Quảng Nam” thì Châu Đình Kế nguyên là tham tri bộ Công, ở trong phe chủ chiến của Tôn Thất Thuyết. Nhưng khi vụ phản công quân Pháp thất bại ở kinh thành, Kế đổi thái độ lơ láo, từ đó dẫn tới làm hỏng nhiều kế hoạch của Tôn Thất Thuyết.
Vì lẽ đó mà khi đi ngang qua thành tỉnh, Trần Văn Dư đã ghé vào để nói chuyện cùng với Châu Đình Kế mà không một chút đề phòng. Không ngờ, trong cuộc đối đáp hôm ấy, viên tuần vũ Quảng Nam tay sai cho Pháp đã xem Trần Văn Dư là tướng giặc nên đã có thái độ xấc xược với một vị tiến sĩ chánh sứ sơn phòng. Trần Văn Dư đã giận dữ gọi Châu Đình Kế là hạng người giá áo túi cơm, cam tâm cúi đầu làm tay sai cho giặc Pháp.
Nhân đó, Châu Đình Kế đã tâu lên tên chỉ huy quân đội Pháp đang có mặt trong thành tỉnh rằng “Người này là đầu đảng của giặc, vô cùng lợi hại, nguy hiểm”. Tên chỉ huy Pháp liền dùng quân luật thời chiến, đem Trần Văn Dư bắn ngay ở góc thành tỉnh, đó là sáng ngày 13-12-1885 (nhằm ngày 8-11-Ất Dậu).
Sau khi Trần Văn Dư bị giết, Nghĩa hội Quảng Nam đã thống nhất cử ông Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu lên nắm quyền Hội chủ. Nguyễn Duy Hiệu sinh năm Đinh Mùi (1847), là con trai của một phú hào ở làng Thanh Hà, huyện Diên Phước (nay thuộc phường Cẩm Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam). Ông là người được gia đình cho ăn học tử tế với các bậc danh sư như: Nguyễn Đình Tựu, Lê Tấn Toán. Năm 16 tuổi (1863), ông thi đỗ tú tài, đến năm 1876 ông đỗ cử nhân, năm 1879 thi Hội ông đỗ Phó bảng.
Năm 1882, nhìn thấy ở ông một con người đức độ, học rộng, biết nhiều, vua Tự Đức đã cử ông làm Giảng tập tại Dưỡng Thiện Đường để dạy cho các hoàng tử, đặc biệt là các hoàng tử Ưng Đăng, ưng Kỉ, Ưng Lịch sau này là các vua Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh.
Khi vua Tự Đức qua đời, để lại một cái triều chính rối ren việc nước cũng như việc hoàng gia. Giặc Pháp thì lăm le nã đại bác vào cửa biển Thuận An, bên trong triều thì gian thần chạy loạn, níu chân Pháp để tìm cách chia quyền, đoạt vị, bán rẻ giang sơn…trước cảnh tình như thế, Nguyễn Duy Hiệu phẫn kích cực độ.
Ông thác cớ mẹ già không ai nuôi dưỡng, nên xin từ chức về quê. Để an ủi xẻ chia với ông, Triều đình Huế phong cho ông hàm Hường lô tự khanh, và từ đó trở đi cái hàm này gắn liền với tên tuổi của ông trong dân gian: Hường Hiệu, hoặc ông Hường Thanh Hà.
Sử quán triều vua Đồng Khánh gọi ông là “ngụy Hiệu”, thực dân Pháp cho ông là “kẻ lục lâm”, tên “Đại phiến động”, nhưng nhân dân thì vô cùng trìu mến khi nhắc nhớ đến ông…
Sau 3 năm cùng với những cộng sự thân tín của mình hưởng ứng chiếu Cần vương chống Pháp trong tâm thế của một con người kiên cường, bất khuất nhưng cũng tiên lượng được đến một lúc phong trào sẽ không tồn tại được…
Cuối năm 1887, triều đình Đồng Khánh cùng với thực dân Pháp quyết tâm tiêu diệt phong trào cần vương, nên dồn lực lượng để bao vây nghĩa quân và tiến đánh vào tận sào huyệt của Nghĩa hội ở căn cứ tân tỉnh Trung Lộc.
Thêm vào đó là có một số thành viên của nghĩa hội đã lung lay tinh thần mà quy hàng theo giặc…Sách “Phong trào nghĩa hội Quảng Nam” của Nguyễn Sinh Duy viết rằng: Trước tình cảnh ấy, Chủ soái Nguyễn Duy Hiệu đã cùng với Phan Bá Phiến quyết định mở nhiều chiến dịch, đưa quân xuống đồng bằng để hư trương thanh thế.
Nhưng, than ôi, đó cũng chỉ là dấu hiệu phụt sáng của ngọn đèn sắp tắt. Trong khi đó, quân của triều đình và quân Pháp liên tiếp mở những trận càn quét đại quy mô nhằm vào nghĩa binh của Nghĩa hội, làm cho rất nhiều hào lý và chức danh của nghĩa hội ra đầu hàng giặc…điều đau buồn hơn là tin các thủ lãnh Cần vương ở Bình Định như Mai Xuân Thưởng, Lê Khanh, Bùi Điền đã bị Trần Bá Lộc hành quyết từ khoảng trung tuần tháng 4 năm Đinh Hợi (1887), cộng thêm tin Hoàng Giáp Phạm Như Xương cùng gia quyến 7 người bị quân khâm sai của Phan Liên lùng bắt ở nguồn Lỗ Đông thuộc huyện Hòa Vang…
Căn cứ địa Trung Lộc dù là đất “thiên hiểm” trước nay, nhưng sau khi bị quân Pháp và quân của triều đình tiến đánh thì tân Tỉnh cũng không còn là đất “thiên hiểm” nữa. Vì lẽ đó mà Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến đã đem đại đội nhân mã và những người tâm phúc rút lên sơn phận An Lâm, lập đòn cứ hiểm. lệnh triệt thoái về bên kia đèo Le được ban ra, sau khi doanh trại, văn miếu Tân tỉnh được lệnh tiêu thổ.
Nguyễn Thân được sự động viên của triều đình Đồng Khánh đồng thời nhận được sự chi viện về tinh binh và khí giới của quân Pháp nên đã cho người đến thám sát tình hình ở căn cứ của Nghĩa hội ở An Lâm.
Sau khi đã điều nghiên kỹ lưỡng địa bàn, chúng đã nhanh chóng mở cuộc bủa vây vào ban đêm. Lúc trong đồn nghe được tiếng động, thì bọn tinh binh của Nguyễn Thân đã kẹp súng xếp ập vào bắn như mưa trút. Toán thân binh canh gác vòng rào ở đồn An Lâm tán loạn, toán cận vệ không còn cách nào khác hơn là mở một con đường máu để thoát ra.
Người ta kể rằng, toán cận vệ này của Nghĩa Hội có khả năng võ nghệ hết sức cao cường, đã dùng những thế phi thân, nhào lộn, vừa bắn trả, vừa cặp hai lãnh tụ Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến chạy vào rừng sâu ẩn nấp. Trên bước đường cùng, hai lãnh tụ của phong trào Nghĩa hội Quảng Nam đã chọn Gò May thuộc xã Phước Sơn để lập đồn cứ hiểm ẩn náu.
Tuy nhiên, không lâu sau đó, đồn Gò May cũng bị quân của Nguyễn Thân tiến đánh, chúng bắt 8 người có chức sắc trong nghĩa hội, từ chức lãnh binh trở xuống.
Gia quyến của lãnh tụ Nghĩa hội Nguyễn Duy Hiệu gồm một mẹ già 85 tuổi, một người vợ, một hầu thiếp và ba người con trai, hai người con gái cũng đều bị bắt. Trong khi đó, Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến đã thoát thân có mặt ở một làng tận miệt biển An Hòa với ý định sẽ vượt biển trốn ra đảo Lý Sơn, nhưng vì sau đó biết được ngoài ấy có người công giáo nên hai ông đã hủy bỏ ý định.
Nhận thấy Nghĩa Hội đã bước vào giai đoạn suy tàn, lãnh tụ Hiệu đã bàn định cùng phụ tá Phiến rằng: “Nghĩa hội ba tỉnh ông với tôi thật chủ trương. Việc đã không thể làm thì chỉ có thể chết mà thôi. Nhưng hai ta cùng chết một lúc là vô ích. Ông hãy chết trước. Phần tôi, tôi sẽ giải tán hội, rồi đem thân mặc cho Pháp bắt. Người Pháp tra hỏi, tôi sẽ cực lực giải thoát cho hội. Một mình tôi chết không đáng tiếc, còn Hội ta sau này có kẻ làm thành chí ta, tức là ta sống đó!”.
Sự kiện này đã được Phan Bội Châu viết trong tác phẩm “Việt Nam vong quốc sử” như sau: “Phiến khẳng khái nhận lời, bèn mang đai đội mão, quay về nơi vọng vua lạy năm lạy, rồi hướng về phía Hiệu lạy và nói: “ông gắng sức, tôi xin đi”. Phiến liền dốc túi thuốc độc, uống xong, nhắm mắt…chứng kiến xong cái chết của người đồng sự tâm phúc, Nguyễn Duy Hiệu cùng tú Nghị bí mật theo đường nước sông Trường Giang từ An Hòa trở về Thanh Hà là cố hương của mình.
Sau khi viếng bàn thờ mẹ, ông đã đi ra miếu thờ Quan Công giữa bãi cát Thanh Hà, ông thay chiếc áo lỡ bằng áo dài đen, vấn khăn đầu lại cẩn thận, ngồi xếp bằng tự tại ngay trước bàn thờ Quan Vân Trường, rồi cho người đi báo để quân của Nguyễn Thân đến bắt…
Xin được trở lại với trận tập kích ở Nam Chơn và vai trò của người chỉ huy dũng cảm trong trận tập kích này. Có rất ít tài liệu ghi lại danh tánh và những hoạt động của nghĩa quân ở vùng Tây-Bắc Hòa Vang thời bấy giờ, tuy nhiên căn cứ trên nhiều nguồn tài liệu có được, nhiều nhà nghiên cứu sử địa phương và ngay cả bản thân chúng tôi khi thực hiện bài viết nhỏ này cũng cùng một nhận định vị chỉ huy cuộc tập kích mà người Pháp đã gọi đây là tấn thảm kịch của họ chính là chiến tướng Hồ Học.
Chiến tướng Hồ Học, quê ở làng Vân Dương, tổng An Hòa, huyện Hòa Vang (nay là huyện Hòa vang, thành phố Đà Nẵng). Ông là một người sớm có tinh thần yêu nước và chống Pháp một cách quyết liệt. Hưởng ứng phong trào Nghĩa hội ở Quảng Nam. Hồ Học đã ra sức chiêu mộ nghĩa binh đến cả nghìn người, tự trang bị các loại vũ khí để phục kích đánh Pháp.
Lúc bấy giờ, trên khắp địa bàn huyện Hòa Vang, quân của Hồ Học đóng ở đâu cũng được bà con nhân dân ủng hộ không những về mặt tinh thần mà còn góp thêm thóc gạo, heo gà, tiền bạc để duy trì chiến đấu. Những ngày tham gia phong trào Nghĩa Hội, quân sĩ của chiến tướng Hồ Học đã cùng với quân của Tiểu La Nguyễn Thành mở các cuộc tập kích vào các đồn binh của Pháp và Nam triều làm cho quân địch bối rối phải khổ sở phòng thủ.
Vào khoảng cuối năm 1886, quân Pháp và quân Nam triều dưới sự chỉ huy của viên đại tá Braxcini mở cuộc hành quân lên Ái Nghĩa thuộc huyện Đại Lộc (Quảng Nam) để truy lùng quân của Nghĩa hội. Các chiến tướng của Nghĩa Hội đã đem quân mai phục ở những địa thế hiểm trở, chờ đến nửa đêm khi quân địch đang mệt mỏi ngủ say thì bất ngờ tấn công.
Bị đánh bất ngờ, địch phải mở đường máu để chạy về Thu Bồn dựa vào quân Pháp đang đồn trú tại đây. Thừa thắng xông lên, quân của Nghĩa hội xông thẳng vào đồn giặc, đánh dồn dập làm địch ở đây trở tay không kịp đành phải kéo nhau bỏ Thu Bồn chạy dài về Đà Nẵng.
Quân của chiến tướng Hồ Học đã mở cửa nhà tù để giải phóng cho những người yêu nước bị giặc bắt giam, đa số những người này sau khi thoát khỏi ngục tù đã tham gia vào phong trào nghĩa hội.
Chiến tướng Hồ Học là người chỉ huy dũng cảm, có tài cầm quân, đánh thắng quân Pháp nhiều trận nên tiếng tăm lẫy lừng. Hội chủ Nguyễn Duy Hiệu đã giao cho ông quản lý vùng đất đai rộng lớn từ đèo Hải Vân đến An Ngãi Đông.
Lợi dụng địa hình đồi núi hiểm trở ông đã xây nhiều đồn lũy thành một thế trận liên hoàn, hỗ trợ lẫn nhau trong phòng thủ và tấn công. Trong một trận đánh ở Hố Chiếu, quân Pháp đông gấp bốn lần nghĩa quân, lại có quân tiếp viện, nên nghĩa quân chỉ cầm cự được một ngày thì đồn luỹ bị đại bác của chúng san phẳng.
Hồ Học cùng nhiều tướng lĩnh của ông như Tán Bùi, ông Đốc Sành, ông Lãnh Địa, Cai Á. Cai Cải cũng bị chúng bắt. Chúng giải ông về Ty Niết ( tức Ty án sát của Nam triều) ở Hội An tra hỏi. Đích thân một viên đại tá Pháp từ Hà Nội vào cùng với viên án sát Quảng Nam hỏi cung chiến tướng Hồ Học.
Chúng mơn trớn dụ dỗ ông khai báo nơi ở của thủ lĩnh Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến và các bí mật của Nghĩa hội thì nghĩa quân sẽ được tha. Hồ Học đã giận dữ quăng cả chiếc ghế vào thẳng mặt viên đại tá Pháp. Chiếc ghế vừa quăng đi, bọn lính bảo vệ đã bắn chết ông. Giặc Pháp còn giết các ông Tán Bùi, Đốc Lãnh, Lãnh Trinh, Cai Á, Cai Cải. Chúng chặt đầu các ông bỏ vào giỏ tra để “bêu đầu thị chúng” trên bờ sông của làng Lai Nghi (gần Hội An) để uy hiếp nhân dân.
Phải đến 10 ngày sau, những nghĩa binh thân tín của ông mới lấy được xác mang về giao cho người nhà chôn cất tại làng Vân Dương. Do chiến tướng Hồ Học là người bị triều đình nhà Nguyễn khép vào tội “Phản nghịch” vì vậy ngôi mộ của ông đã bị chính quyền đương thời xiềng lại bằng một sợi xích.
Phải đến sau khi cách mạng tháng 8 thành công, sợi xích oan nghiệt trên ngôi mộ của chiến tướng Hồ Học mới được cởi bỏ. Hiện tại, mộ của chiến tướng Hồ Học đã được đưa về nghĩa trang xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang (TP. Đà Nẵng) để hương khói, chăm sóc...