Thực tế, ngay từ thuở sơ khai của bộ môn này, các nữ hiền nhân đã luôn song hành với các nam hiền triết. Họ vừa đóng vai trò vừa là vợ, vừa là địch thủ, cùng nhau phát triển luận điểm, tìm kiếm tiếng tăm và để lại danh thơm muôn thuở.
Vợ kiêm đối thủ xứng tầm
Chương 3 của Áo nghĩa thư (Upanishads), tác phẩm lý luận kinh điển lâu đời nhất của Ấn Độ được viết vào khoảng thế kỷ IX - VI trước công nguyên kể lại câu chuyện đấu trí căng thẳng giữa Gargi Vachaknavi, nữ triết gia cổ đại nổi bật và Yajnavalkya, một trong những bậc thầy triết học đầu tiên của nhân loại, người đề xuất và tranh luận về bản chất của sự tồn tại, ý thức và vô thường.
Nhiều người cho rằng, Gargi chính là đối thủ số 1 của Yajnavalkya nhưng không phải vậy. Đối thủ số 1 thật sự của ông là Maitreyi, người vợ hiền kiêm nữ hiền triết có khả năng là nữ triết gia đầu tiên của nhân loại.
Một trong các câu hỏi khởi động tranh luận triết học giữa Maitreyi và chồng là “Nếu thiếp có được tất cả tiền bạc của thế giới, thiếp sẽ bất tử chứ?”. Nó mở ra đề tài “mối quan hệ giữa tri thức và chủ nghĩa vật chất” khiến hai người bàn cãi mãi cũng không hết.
Không chỉ trước công nguyên, Ấn Độ sau công nguyên vẫn là thế giới nam – nữ hiền triết song hành. Nam triết gia Adi Shankara (788 - 820), người thành lập trường phái Advaita Vedanta đã luôn tranh luận với bạn cũng là nam triết gia - Mandana Mishra (? - ?), nhưng người đứng ra làm “trọng tài” quyết định thắng thua giữa họ lại là Ubhaya Bharati, vợ của Mishra.
Trong cuộc đấu luận dữ dội nhất, Shankara đã chiến thắng nhưng Mishra cũng không phải buồn lâu vì Ubhaya đã bước ra và nghênh chiến với Shankara thay cho ông. “Cho đến khi đánh bại được cả thiếp đây, các hạ không thể tự nhận là đã thắng phu quân của thiếp”, bà tự tin đối đầu.
Cuộc đấu khẩu giữa Ubhaya và Shankara đã diễn ra trong suốt 17 ngày, mổ xẻ từ Kinh Vệ Đà (Veda) đến các trường phái triết học khác nhau trên khắp lục địa. Vì không đánh bại được Shankara, Ubhaya khôn khéo lái sang chủ đề tình yêu, cái mà Shankara vốn độc thân từ thuở niên thiếu chắc không có bao nhiêu hiểu biết. E còn tranh luận tiếp sẽ thua, Shankara hẹn Bharati cho ông một tháng để tìm hiểu vấn đề rồi mới quay lại tái chiến tiếp.
Rạng danh sử sách
Tất nhiên, không phải mọi nữ hiền nhân đều là vợ của nam hiền triết hay chỉ Ấn Độ mới có nữ triết gia. Có điều, một khi đã nhắc đến triết học Ấn Độ, chúng ta cũng không thể bỏ qua nữ triết gia mạnh mẽ nhất - Akka Mahadevi (1130 - 1160). Bà sinh ra ở Udutadi, Karnataka, Tây Nam Ấn Độ, nổi bật vì sớm có tư duy cực kỳ cấp tiến trong thời đại phụ quyền là bình đẳng giới.
Suốt đời, Karnataka kịch liệt phản đối phân biệt giới tính, đẳng cấp, ngôn ngữ và quy định trang phục. Bà không phụ thuộc vào bất cứ một ai mà chọn lối sống tự cung tự cấp. Trong khi Ấn Độ thờ đa thần, bà chỉ sùng kính Nữ thần Shiva. Mọi nguyên tắc từ trong kinh thư đến các khuôn mẫu tiêu chuẩn của dòng tộc, thể chế, bà đều bất tuân.
Lúc kết hôn với lãnh chúa Kaushika, bà ra điều kiện ngủ riêng phòng, chỉ chung đụng lúc mình đồng ý. Bị phu quân cưỡng bức, bà lột sạch quần áo trên người và cứ thế đi bộ trên đường và tiến thẳng tới Anubhava Mantapa, trung tâm thảo luận triết học đương thời để bày tỏ lập trường.
Tại Anubhava Mantapa, Karnataka đụng mặt nhà thơ, triết gia danh giá Allama Prabhu (? - ?). Thấy bà mình mẩy không tấc vải, Prabhu vô cùng kinh ngạc và hỏi nguyên nhân. Karnataka trả lời rõ ràng và cả 2 ngồi xuống đối diện nhau, phân tích và hùng biện vấn đề “hôn nhân và chủ quyền trong hôn nhân”. Cuối cùng, Prabhu bị bà thuyết phục, nổi giận mà quát lên rằng, “Loại phu quân đó đáng bị giết, chặt xác ra và đốt trụi trong bếp lửa”.
Trung Quốc, nền văn hóa siêu gia trưởng cũng có nữ triết gia nổi tiếng là Ban Chiêu (45 - 116), người hoàn thành Hán thư (漢書), tài liệu lịch sử về giai đoạn Tây Hán từ năm 206 TCN - 25 SCN. Bên cạnh các ghi chép sự kiện lịch sử, Hán thư của Ban Chiêu còn rất nhiều bài luận về địa lý, văn học, tài chính... Đặc biệt, nó dành riêng một số trang cho con gái. Ban Chiêu hết sức để tâm tới vấn đề bình đẳng giáo dục, muốn các bé gái cũng phải được cho ăn học đầy đủ giống như các bé trai.
Hàn Quốc, đất nước khét tiếng gia trưởng cực đoan hơn cả Trung Quốc cũng có nữ triết gia được ví như “hiện thân cho sự tự hào của phụ nữ Chosŏn” - Im Yunjidang (1721 - 1793). Bà là học giả vô cùng tự tin, nghiêm túc trong việc trở thành nhà hiền triết và rất chú trọng vấn đề bình đẳng giới.
Ấn tượng là châu Âu, nơi được xem như cái nôi của triết học hiện đại với rất nhiều nhà triết học nam – nữ đa tài cũng có nữ triết gia từ thời cổ đại. Ghi chép của Diogenes Laërtius (180 - 240), người viết tiểu sử Hy Lạp thời cổ đại có một chương viết về nữ triết gia Hipparchia (350 - 280 TCN) và cả 100 trang viết về các nữ triết gia cổ đại khác, ví dụ như Julia Domna (160 - 217).
Khu vực Trung Đông thì có nữ triết gia kiêm thành viên sáng lập của Hồi giáo Mật tông (Sufi giáo) Rabi'a Basra (714 - 801). Mặc dù có tuổi thơ bị bán làm nô lệ nhưng Rabi'a đã nỗ lực vượt qua mọi khốn khó để trở thành người có ảnh hưởng lớn đến toàn vùng.
Bước sang thế kỷ XVI, Trung Đông xuất hiện thêm nữ triết gia tiếng tăm nữa là A'ishah al-Ba'uniyyah. Bà sinh ra và lớn lên ở Damascus, Syria, sau đó tới Cairo, Ai Cập để học tập, nghiên cứu cùng nhiều học giả khác và có đến hơn một tá tác phẩm.
Châu Phi có nữ triết gia muộn nhất và nữ triết gia đầu tiên của họ là Nana Asma'u (1793 - 1864). Bà đến từ Sokoto Caliphate, Bắc Nigeria, là con gái của một nam học giả theo chủ nghĩa nữ quyền nên từ nhỏ đã được cha cho ăn học và cùng ông đàm đạo. Mạng lưới giáo dục Yan Taru đang hoạt động ở Nigeria bây giờ chính là hệ thống giáo dục do bà sáng lập ra.