Giàng Nhí Dinh láy đi láy lại từ xuống, vì Đồng Văn là trung tâm vùng lõi trũng của cao nguyên đá Hà Giang.
1. Mờ sáng. Mây quện quánh úp chụp xuống thung lũng. Từ trên cao nhìn xuống thị trấn Đồng Văn giống như chảo thắng cố khổng lồ. Chúng tôi vây quanh chiếc bàn, nhâm nhi ly cà phê trong khuôn viên thương mại, trước dãy nhà cổ, kề chân núi Đồn Cao.
Khác mấy ngày trước, hôm nay đâu đâu cũng nhộn nhịp bước chân người. Những ánh đèn soi lối, những tiếng nói cười lao xao, tiếng guốc ngựa, guốc trâu, xe kéo lọc cọc đổ về mạn Đồng Tâm sau lưng thị trấn...
Sùm sụp cái mũ len gần sát cặp lông mày thưa, sống mũi ửng đỏ vì lạnh, gã xe ôm Giàng Nhí Dinh, người Mông ngồi cùng, thao thao: “Sáng nay là chợ phiên Đồng Văn. Chúng mày phải xuống chợ mà uống rượu, ăn thắng cố, mua hàng về Hà Nội. Bản làng ta, huyện Đồng Văn của ta ai ai cũng thích chợ phiên. Đông lắm. Vui lắm!”...
Nghe Dinh “quảng cáo” vậy, cả nhóm “phượt” chúng tôi bàn nhau đổi lịch đi Mèo Vạc để xuống chợ. Dinh được đà, lời như thả bùa: “Chẳng hiểu trời đất sinh ra chợ phiên Đồng Văn tự năm nảo năm nao, chỉ nhớ khi ta rõ mặt trăng treo trên đỉnh núi đá cũng là khi biết theo bố mẹ xuống chợ ăn kẹo vừng, bánh đa. Chợ họp vào sáng Chủ nhật mỗi tuần. Phiên sau thường đông hơn phiên trước. Xưa chỉ đồng bào xuống chợ. Nay thì cả Tây lẫn ta len nhau xuống”!
Gã láy đi láy lại từ xuống, vì thị trấn Đồng Văn là trung tâm vùng lõi trũng của cao nguyên đá. Biết vậy, tôi vẫn vặn vẹo: “Sao lại là xuống”? Gã chọi lại ngay: “Chợ lọt thỏm dưới thung. Người dân Mông, Dao, Tày, Nùng, Lô Lô, Giáy... chúng tao đều sống chết với đá núi hiểm trở, mưu sinh, xuống chợ là cởi lòng cởi dạ, là bỏ lại tất cả nhọc nhằn vất vả trên nương trên đá”.
Họ gùi hàng sau lưng. Tay xách, nách mang, ô xòe che sương che gió dắt díu nhau hướng về một phía, theo lối mòn thân lươn, thân chạch, quanh quanh, cheo leo, vòng vèo trên triền núi đá để xuống chợ phiên!
Lời Dinh nói gợi tôi chạnh nhớ suốt độ đường từ TP Hà Giang lên đây với muôn vàn khúc cua quanh co, chênh chao trên cả tầng mây ngỡ mình như bay. Những bản làng, những nếp nhà tường xây cũng đá, rào quây cũng đá loi thoi, lô mô trong sương giăng, mây ủm.
Những sắc hoa bạc hà, tam giác mạch..., đã làm nên “thương hiệu” của du lịch Hà Giang đang hút khách, hút hàng tứ phương. Trời đất thuận hòa, mùa màng khá giả, hàng hóa ùn ùn đổ về! Gã thôi thúc: “Xuống đi. Chúng mày xuống đi. Chợ đã họp rồi”!
2. Chúng tôi theo ngả tắt chính diện trục đường lớn của thị trấn để xuống chợ. Vẫn nét muôn năm mua bán, đổi trao của chợ. Muôn vẻ của hàng tạp hóa, của hoa quả, lợn, gà, trâu, bò, dê, chim, cá, mật ong, rượu, ẩm thực... Tựa như 22 dân tộc của tỉnh Hà Giang đều hội tụ ở chợ Đồng Văn, địa đầu cực Bắc của Tổ quốc. Sắc phục đa dạng, đa màu đến kỳ lạ.
Thiếu nữ người Mông trắng vận váy thâm xếp nếp giản dị nhưng phần cổ áo, tay áo và thắt lưng lại trang trí rất bắt mắt bằng vải lanh trắng, lanh đỏ khâu ghép lại trên nền vải đen với hoa văn hình sên ốc. Thiếu nữ Mông hoa, Mông đen thì trưng diện trọn bộ trang phục, váy xếp nếp hai bên, áo cánh xẻ ngực, yếm lửng, thắt lưng vải màu, khăn quấn đầu.
Thiếu nữ Dao Đỏ thì khăn vấn màu chàm, khăn phủ đầu màu đỏ. Hai đầu khăn vấn phơi phô họa tiết, hoa văn thêu vắt bằng chỉ màu cùng những chuỗi hạt cườm xen dải tua đỏ rực, khiến cho khuôn mặt hào hởi, tươi tắn hẳn lên.
Trang phục của họ hệt như một công trình nghệ thuật: Đầu khăn vấn, khăn phủ; thân áo con, áo dài tứ thân màu tối, nẹp cổ áo liền với nẹp ngực, họa tiết rực rỡ; dây lưng vải đỏ, xà cạp bó chặt bắp chân, đồ trang sức bằng bạc trắng xủng xẻng, loang loáng.
Đến với chợ hệt như đi hội hè. Thanh nữ dân tộc Tày thì áo cánh trắng mặc trong, áo dài năm thân vận ngoài, váy dài lưng chân, khăn đội đầu, thắt lưng vải đũi, thanh lịch và duyên dáng...
Vào các sạp, trang phục đặc sắc của hầu hết các dân tộc cho mọi độ tuổi, cùng hàng hóa thổ cẩm tự làm ra như ga trải giường, trải bàn, địu, khăn, mũ, ví, túi xách, túi đeo, vỏ đệm ghế... bày bán la liệt, rực rỡ, muôn màu muôn vẻ thành điểm hút khách nhất.
Vợ chồng ông bà Tây đến từ thủ đô Roma (Ý) thay nhau chớp lấy chớp để hình ảnh mế già người Mông xăm xắn ở sạp hàng, ních đầy gùi quần áo mới với nhiều cỡ khác nhau.
Tôi hỏi giùm họ: “Sao mế mua nhiều áo quần đến vậy”? Mế bảo: “Lâu lâu mới xuống chợ, có tiền bán thảo quả phải mua quần áo đẹp cho con, cho cháu chớ. Chúng nó bây giờ chỉ thích mặc đẹp thôi. Mà già như ta cũng muốn đẹp nữa là”! Mế cười hồn hậu. Vợ chồng người Tây hoan hỉ, chan chan nỗi niềm sẻ chia.
Nhích theo dòng người, chúng tôi tìm đến khu bán súc vật ở rìa chợ, sát với thửa ruộng lúa nước. Lạ lẫm khi thấy những con lợn choai choai, lông xù đen sẫm, đôi tai sấn sẹo dòng chạc cùi cụi theo chủ vào chợ. Lợn ở đây chỉ nặng vài ba chục cân, dáng thon, chắc nịch là sản vật hút khách.
Trâu bò thì ê hề. Cả những chú bê non mới hơn tháng tuổi cũng theo mẹ để chủ đưa đi bán. Tôi hỏi: “Bê nhỏ thế sao đã bán”? “Ờ... Cần tiền để sắm cái tivi”! Lại hỏi: “Nhỡ không bán được thì sao”? “Ờ... Phiên sau lại bán”! “Nhà xa không”? “Ờ... Đi từ nửa đêm mới kịp”! Tự dưng tôi cay cay nơi khóe mắt!...
Hẳn là nông nghiệp Đồng Văn thắng lớn nên gạo, thóc, rau, măng, củ, quả, nấm hương, mộc nhĩ, thảo quả, lê, tam giác mạch, dược liệu cũng ê hề. Mật ong núi thấm đẫm sắc hương bạc hà, tam giác mạch chứa trong chai, trong can. Cà chua, bắp cải, su hào thuộc hàng rau sạch của vùng chuyên canh thị trấn, luôn bộn khách nội chợ.
Nông sản chắt ra từ núi đá, sương rừng như đỗ, đậu, lạc, vừng, hạt dẻ gai đựng trong bao tải, trong thúng, trong mủng... cân đo bằng ống bơ bò. Nói sao bán vậy không bớt, không thêm, lời thật, lời thà như đếm, như đong!... Người bán, người mua vui vẻ. Đi xem, đi chơi đủ mọi lớp người ai ai cũng hồ hởi.
Gặp nhau vồn vã, nhớ nhung nghẹn ngào. Ánh mắt bắc cầu đo ý ngỏ tình... Nét chợ hoang sơ nhưng nết người chân thật, nghĩa tình. Không tham lam, trộm cắp, không chìa tay xin, không đanh đá như “chợ nọ, chợ kia”...
3. Chúng tôi trở vào, định bụng ăn tô thắng cố. Nhưng chỉ có một gênh nên đã kín cả chỗ ngồi. Gênh thắng cố được đặt trên chiếc bếp lò khủng đắp bằng đất, chít trát kín bưng, chỉ một cửa duy nhất đủ để nhập củi, thúc lửa nên liên tục. Chảo thắng cố sôi sùng sục, hơi nghi ngút gây thèm, để nhớ cho thực khách...
Chúng tôi ghé vào bàn rượu cốt để biết vị cay thơm nồng đậm của rượu ngô xứ núi. Bàn rượu dài như bàn hội nghị thôn. Ghế ván gỗ vây quanh. Rượu chứa trong ca trong can đặt bừa phứa trên bàn.
Rút ví định mua một ly nhỏ thì vị khách lớn tuổi níu tôi ngồi xuống, lời buông theo: “Không phải trả tiền. Uống đi, uống với tao vài bát. Không say thì không về”! Tôi né người vì biết cái tạng của mình. Lão nhấc chiếc gùi đầy ắp hàng đặt xuống chân, kéo tôi sát lại: “Uống đi! Uống với tao”! Tay đón bát rượu, nhưng mắt tôi cứ săm soi vào chiếc gùi hàng hóa. Lão chuyển giọng phô lấy phô để: “Vợ tao nó mua sắm đấy. Mới được một gùi, tao phải uống để lấy sức gùi về.
Gùi nữa vợ tao đang kiếm tiếp... Uống đi. Không say thì không về”! Lão móc trong gùi lấy ra hộp bánh dẻo nhãn tam giác mạch định bóc, nhưng tôi ngăn lại. Giọng khơi khơi: “Bánh của Đồng Văn đấy. Tam giác mạch đấy. Ngon lắm”!
Chợ tan. Dòng người như bị hút ngược về những đường mòn quanh co, cheo leo nơi triền núi đá... Lão già vẫn thủy chung ngồi chờ vợ bên bàn rượu. Men rượu ngô dường như đã ngấm, lão nói với tôi giọng chân tình: “Chúng mày lên xã Thái Phìn Tùng chơi với chúng tao đi”!