Tổ chức khủng bố khét tiếng
Suốt cuối thế kỷ XI, có một tổ chức được thành lập tại khu vực Persia và Syria bới Giáo chủ Hồi giáo người Ba Tư Hassan-i Sabbah (khoảng 1050 –1124).
Giáo chủ Hồi giáo người Ba Tư Hassan-i Sabbah
Những ngày tha hương
Hassan sinh ra ở Cairo, Ai Cập vào năm 1034, nhưng do ủng hộ nhầm bên nên đã phải bỏ quê tha hương sau một cuộc tranh giành ngôi báu giữa hai thế lực trong vương triều Fatimid và tới Ba Tư lánh nạn.
Những cuộc Thập tự chiến cũng bị tổ chức này ngăn cản
Sabbah vốn là một nhà truyền đạo nổi tiếng ở vùng Trung Đông nên ông nhanh chóng thu phục được nhiều đệ tử và tạo dựng được một thế lực lớn mạnh.
Hassan luôn nung nấu ý định báo thù
Trong thời gian tha hương, Hassan nung nấu ý định báo thù những kẻ đã đày đọa mình và gia đình. Kẻ thù của ông chủ yếu là các nhánh Hồi giáo khác và người Kitô giáo với cuộc Thập tự chinh xâm lược vùng Đất Thánh.
Phục thù
Để phục thù, ông cần phải có căn cứ và lực lượng tinh nhuệ. Hassan đã tìm kiếm và phát hiện một địa điểm lý tưởng, đó là pháo đài Alamut ("Tổ đại bàng").
Tổ đại bàng
Pháo đài Alamut có địa thế chiến lược, được xây trên đỉnh 1 núi đá, nằm sâu trong rặng Elburz, án ngữ 1 vùng thung lũng khép kín nhưng trồng trọt được, thung lũng này dài chừng 30 dặm, chỗ rộng nhất đến 3 dặm.
Nằm chót vót trên mỏm đá cao 1800m, lâu đài chỉ có thể đến được qua 1 con đường hẹp, dốc và ngoằn ngoèo. Muốn tới được mỏm đá phải qua 1 hẻm núi hẹp tạo bởi dòng sông Alamut, với những vách đá thẳng đứng.
Trong thời gian làm thủ lĩnh kéo dài hơn 20 năm, Hassan-i Sabbah đã dựng nên 1 đất nước hoàn toàn độc lập giữa lòng 1 quốc gia Hồi giáo hùng mạnh.
Là một trong những thủ lĩnh xuất sắc nhất, ông đã từng khiến cho vua Saladin của xứ Ba Tư và vua Richard I của nước Anh (còn được biết đến với biệt danh The Lion Heart – Trái tim sư tử) phải sợ hãi mỗi khi nhắc đến tên mình.
Tổ chức của ông cũng vô cùng chặt ché và bài bản, các sát thủ được huấn luyện kỹ càng với kỹ năng sát thủ tinh nhuệ. Họ trung thành tuyệt đối và sẵn sàng chết vì Giáo chủ của mình cũng như không tiếc tính mạng trong những nhiệm vụ nguy hiểm.
Ảnh minh họa
Người ta cho rằng sở dĩ như vậy vì các tân thành viên Hashshashin thường bị đánh thuốc khiến cho họ bị chết lâm sàng hoặc có cảm giác đã lìa bỏ cõi đời.
Khi tỉnh dậy vì thuốc hết tác dụng, họ phát hiện mình đang ở trong một khu vườn đẹp lộng lẫy, nhiều thức ăn ngon và tôi tớ khỏe mạnh, đẹp đẽ.
Ngỡ rằng mình đã được lên thiên đường, các sát thủ tương lai này sẽ chiến đấu hết mình và hy sinh vì chủ nhân nếu thấy cần thiết.
Một sát thủ không được phép tự sát mà phải chiến đấu tới cùng, cho tới khi bị giết. Bên cạnh lực lượng vũ trang chính quy, Hassan đã cho thiết lập một tổ chức giết người bí mật như một cánh tay trái của mình.
Các thành viên của tổ chức này được được gọi là "Fida"i" (Hiến thân tự nguyện), được tào tạo các kỹ năng của những kẻ sát nhân chuyên nghiệp
Họ được tuyển chọn từ những người trẻ tuổi, có thể lực sung mãn và sức chịu đựng bền bỉ. Nhưng sức mạnh thể chất không phải là ưu tiên số một. Phẩm chất được đánh giá cao nhất của một Fida"i là sự kiên nhẫn, lạnh lùng và khả năng lên kế hoạch.
Pháo đài Masyaf
Sỡ hữu một lực lượng đáng sợ như vậy, Hassan có thể dễ dàng thực hiện những phi vụ ám sát kẻ thù của mình. Đó thường là các chính trị gia hoặc những nhà chỉ huy quân sự.
Các thuộc hạ của Hassan hiếm khi tấn công người dân bình thường và luôn cố gắng tránh gây thù oán với họ.
Sự lớn mạnh và đáng sợ của chúng đã gieo rắc nỗi kinh hoàng khắp các vùng lân cận và tới tận châu Âu. Tổ chức sát thủ này là mối hiểm họa đe dọa các thế lực xung quanh, khiến cho các nước lân bang lo sợ.
Suy tàn
Cuối cùng tổ chức này cũng bị suy tàn
Vào năm 1256, Hulagu Khan – cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, đã đem quân Mông Cổ san bằng pháo đài Alamut, tổng hành dinh của tổ chức Hashshashin, hạ sát thủ lĩnh của Hội sát thủ là Imam Rukn al-Din Khurshah.
Nhưng mầm mống của tổ chức này vẫn gieo rắc khắp thế giới.
Năm 1257, các pháo đài của Hashshashin lần lượt gục ngã dưới vó ngựa của quân Mông Cổ. Pháo đài Alamut cùng các sát thủ Hashshashin bị chôn vùi, nhân loại cũng bớt đi được mối lo về sự lộng hành của những kẻ giết người không chớp mắt.
Hội ngày càng suy yếu dần, tồn tại lay lắt cho đến năm 1273 thì bị tiêu diệt bởi Sultan Baibars của vương triều Mamluk.