Do khối sỏi lớn, chị H.L. phải nằm viện từ tháng 6 đến nay để thực hiện việc tán sỏi để điều trị bệnh.
Phương pháp tán sỏi qua da
Để tán sỏi qua da, các bác sĩ rạch một vết rạch nhỏ khoảng một cm tại vùng lưng của bệnh nhân, sau đó nong một đường hầm nhỏ qua da vào đến thận, tiếp xúc với viên sỏi.
Ống nội soi thận được đặt vào đường hầm để bác sĩ tán sỏi thành mảnh vụn nhỏ và hút ra ngoài. Nội soi tán sỏi thận qua da là phương pháp ít sang chấn, thay thế cho mổ mở.
Kiểm tra sức khỏe cho bệnh nhân sau (Ảnh BVCC). |
Bác sĩ Đỗ Ngọc Sơn, Phó Trưởng khoa Phẫu thuật Tiết niệu, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, cho biết ngày nay y học phát triển nên dễ dàng phát hiện sỏi thận, sỏi tiết niệu để điều trị sớm. Sỏi tiết niệu chiếm 45-50% bệnh tiết niệu ở Việt Nam. Nam mắc sỏi nhiều hơn nữa (60:40), tuổi thường gặp là 30-60.
Nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, sỏi dẫn đến những biến chứng như nhiễm khuẩn tiết niệu, viêm đài bể thận, viêm thận kẽ, viêm hẹp cổ đài thận, giãn đài bể thận, ứ nước, ứ mủ thận, áp xe thận; suy thận do sỏi thận 2 bên gây tắc nghẽn…
Theo bác sĩ Sơn, nhiều người bệnh không nên điều trị bằng lá thuốc theo cách chữa dân gian, điều này sẽ khiến tình trạng nặng hơn.
Mới đây, một nam bệnh nhân 52 tuổi ở Sơn La đến viện muộn sau một thời gian uống thuốc lá dài khiến nhu mô thận giãn, quả thận teo đi, chức năng thận giảm 50%.
Dấu hiệu và cách phòng bệnh
Nguyên nhân hình thành sỏi gồm: Rối loạn chuyển hóa gây tăng canxi máu và canxi niệu; dị dạng đường tiết niệu bẩm sinh hoặc hẹp đường tiết niệu mắc phải gây ứ đọng nước tiểu tạo điều kiện thuận lợi hình thành nên sỏi. Đa số trường hợp sỏi canxi không rõ nguyên nhân, một số tăng canxi do chế độ ăn uống, bệnh lý như mất nước, nằm bất động lâu. Có người bị tăng canxi niệu gây sỏi hoặc cường tuyến cận giáp, hạ phospho.
Phó giáo sư Đỗ Trường Thành - Trưởng khoa Phẫu thuật Tiết niệu, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, cho biết sỏi nhỏ trong thận có thể di chuyển xuống niệu quản gây cơn đau quặn thận, xuống bàng quang và bệnh nhân có thể đi tiểu ra ngoài.
Sỏi cũng có thể gây tắc nghẽn niệu quản dẫn đến ứ nước, ứ mủ thận và suy chức năng thận có sỏi. Lâu ngày, sỏi đài bể thận sẽ gây biến chứng như nhiễm khuẩn tiết niệu; viêm đài bể thận, viêm thận kẽ, ứ nước, ứ mủ thận, áp xe thận, suy thận…
Dấu hiệu bệnh thường gặp là đau âm ỉ thắt lưng, tiểu ra máu do sỏi di chuyển khi vận động hay nhiễm khuẩn gây tổn thương niêm mạc đài bể thận chảy máu.
Khi bị nhiễm khuẩn tiết niệu, bệnh nhân sốt cao 38-39 độ C, thận to đau, nước tiểu đục và đôi khi sốc nhiễm trùng, vã mồ hôi, nổi vân tím toàn thân, tụt huyết áp.
Để phòng và theo dõi sau điều trị sỏi thận, người bệnh uống trên 2 lít nước mỗi ngày, hạn chế thức ăn nhiều canxi, oxalate như sữa, phomat… Bệnh nhân cần khám định kỳ nhằm phát hiện sỏi thận tái phát hoặc các biến chứng, di chứng sau can thiệp.