Bộ “sách hình” khái quát đất nước Việt Nam
Cửu đỉnh là chín cái đỉnh bằng đồng được vua Minh Mạng ra lệnh chế tác, khởi công đúc từ tháng 12 năm 1835, hơn 1 năm sau thì đúc xong và tiếp tục việc hoàn thiện. Trước khi đúc, triều đình tổ chức lễ cáo, đúc xong đưa tới đặt trước sân Thế Tổ Miếu (bên trong Hoàng Thành, Huế), sau lưng Hiển Lâm Các, làm lễ tạ, và từ đó, Cửu đỉnh còn nguyên ở vị trí này cho đến tận ngày nay.
Trải qua 200 năm, đi qua bao cuộc chiến tranh tàn khốc, song đến nay, Cửu đỉnh vẫn còn nguyên vẹn như ban đầu. Đây là những bản nguyên gốc và cũng là bản duy nhất, từ khi được hình thành, Cửu đỉnh chưa từng được sửa chữa, dù chỉ một chi tiết nhỏ. Vì vậy, chúng có giá trị độc bản và không thể thay thế.
Ngoài tính biểu trưng cho các vị vua, thể hiện quyền lực của vương triều nhà Nguyễn thì Cửu đỉnh như một bộ “Địa dư chí lược” của Việt Nam đầu thế kỷ XIX được ghi bằng ngôn ngữ tạo hình với tổng cộng 162 họa tiết được chạm nổi tinh xảo. Cửu Đỉnh gắn liền với con số 9, một con số thiêng liêng theo quan niệm phương Đông, tượng trưng cho Trời, cho sự hoàn thiện tuyệt đối, cho quyền uy và sức mạnh của người đứng đầu thiên hạ.
Số 9 là tư tưởng chủ đạo vua Minh Mạng trong việc đúc Cửu Đỉnh cho triều đại mình: tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và sắp xếp theo số 9, “Chín tinh tú và thiên nhiên trong vũ trụ; Chín ngọn núi lớn;Chín con sông lớn; Chín sông đào và sông khác; Chín cửa biển, cửa quan, biển, cầu vồng; Chín con thú lớn bốn chân; Chín con vật linh; Chín loài chim; Chín loại cây lương thực; Chín loại rau, củ; Chín loại hoa; Chín loại cây lấy quả; Chín loại dược liệu quí; Chín loại cây thân gỗ; Chín loại vũ khí; Chín loài cá, ốc, côn trùng; Chín loại thuyền, xe, cờ”.
Từ những dẫn liệu trên, có thể thấy rằng các nghệ nhân thời Minh Mạng đã thể hiện một cách khái quát nhưng súc tích sự đa dạng của nhiều cảnh vật nổi tiếng của mỗi miền đất nước tạo nên sự giàu đẹp của Tổ quốc: tinh tú, núi sông, cửa biển, lãnh hải, cửa ải, cây cối, hoa đỏ, động vật, binh khí, xe thuyền… Nếu ở Tuyên đỉnh có sông Hồng thì Huyền đỉnh có sông Cửu Long và Nhân đỉnh có sông Hương. Nếu Cao đỉnh có cọp trên rừng thì Nhân đỉnh có cá voi dưới biển. Các hình ảnh ở Cửu đỉnh đều biểu hiện những cảnh vật rất thật và quen thân với dân tộc Việt Nam.
Trên Cửu đỉnh cũng có những hình ảnh sản vật liên quan đến thời cam go của vương triều nhà Nguyễn như cây Nam trân (lòn bon) được khắc chạm trên Nhân đỉnh. Quả lòn bon rất ngọt, mọc nhiều ở rừng Quảng Nam, hiện vẫn được bán trên thị trường Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế... Tương truyền, những năm cuối thế kỷ XVIII, thời gian bị quân Tây Sơn săn đuổi, Nguyễn Vương (Nguyễn Phúc Ánh) ẩn náu ở nguồn sông Vu Gia, rừng Quảng Nam, nhờ ăn quả lòn bon này mà sống. Khi Nguyễn Vương lên ngôi vua lấy hiệu Gia Long, người đã đặt tên cho cây trái này là phụng quân mộc (cây gặp vua). Có lẽ vì thế mà đời vua Minh Mạng cho khắc cây lòn bon vào Nhân đỉnh.
Ngoài cây lòn bon, Vua còn cho khắc hình ảnh cá sấu trên Chương đỉnh vì tương truyền Nguyễn Phúc Ánh qua sông nhờ cá sấu cản mà không sa vào tay kẻ thù. Khi vượt biển ra đảo Thổ Chu, thuyền của Ánh không bị lật nhờ rắn thần giữ thăng bằng.
Tất cả các hình ảnh được đúc nổi trên Cửu đỉnh đều là những đặc trưng vùng miền trải dài từ Bắc chí Nam. Ngoài tính cung đình hình ảnh trên Cửu đỉnh còn mang đậm tính dân gian, gắn liền với đời sống của đại đa số người Việt ở chốn thôn trang. Bên cạnh cây gỗ lim, quế, tùng, còn có những cây lương thực và thảo mộc rất phổ biến đối với mọi người, như cây lúa, cây trầu, cây mít, cây hành, cây nghệ, rau tía tô, cây đậu phụng…
Nhiều hình ảnh về đa dạng sinh học Việt Nam
Cửu đỉnh không chỉ là hình trang trí đơn thuần mà thực sự là một bộ cẩm nang có minh họa và chú thích đầu tiên của nước ta về sự đa dạng sinh học. Trong số 162 họa tiết chạm nổi trên các đỉnh đồng của nhà Nguyễn ở Huế, có tới 90 hình ảnh là về các loài động thực vật đặc trưng của Việt Nam. Các họa tiết này đều thể hiện một cách sống động các loài động thực vật, nhiều chỗ chạm khắc khá chi tiết những đặc điểm nổi bật của các loài.
Tất cả loài động thực vật do vậy đều có thể nhận dạng dễ dàng qua các hình khắc đồng trên Cửu đỉnh. Thực vật trên Cửu đỉnh với 54 họa tiết, có thể phân thành 6 nhóm: cây lương thực, cây lấy sợi, rau và cây gia vị, cây lấy quả, các loại hoa, các loại gỗ, dược liệu và hương liệu. Động vật gồm có: loài cá, ốc, côn trùng; chim; thú lớn bốn chân; các loài vật linh.
Từ đó, Cửu đỉnh nhà Nguyễn có thể nói là một bộ sách ảnh các loài động thực vật đặc trưng của nước ta, thể hiện một thiên nhiên phong phú, quý giá. Đó cũng có thể coi là một cuốn “Sách đỏ Việt Nam” hay một Danh mục các loài cần được bảo vệ của thời xưa.
Cửu đỉnh có ý nghĩa quốc tế
Cửu đỉnh được viết bằng chữ Hán và các tư liệu được thể hiện bằng các hình ảnh đúc nổi với nội dung chủ đạo liên quan đến các địa danh, thụy hiệu của vua, các sinh vật, cây trồng, sông núi …và đặc biệt là việc khẳng định chủ quyền biển đảo. Cửu đỉnh chạm khắc nhiều địa danh sông núi, biển đảo... của đất nước được thể hiện rất rõ ràng, minh xác. Đặc biệt, trong 9 đỉnh có 3 đỉnh vua Minh Mạng cho khắc hình tượng về biển để thể hiện bao quát về biển đảo nước Việt: Biển Đông ở Cao đỉnh; biển Nam ở Nhân Đỉnh và biển Tây ở Chương đỉnh, là 3 cái đỉnh to cao nhất và quan trọng nhất.
Cùng với hàng loạt tài liệu Hán - Nôm cổ, những hình ảnh biển đảo được khắc trên bộ Cửu đỉnh sẽ là một nguồn tư liệu quý về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời còn cho đời sau thấy được rằng, các vị vua triều Nguyễn đều một lòng ra sức bảo vệ và thực thi chủ quyền biển đảo của đất nước.
Chữ Hán là ngôn ngữ để dùng của một số nước ở khu vực Đông Á, có tính phổ biến cao, có giá trị đối với cộng đồng. Trong cái nhìn so sánh cho ta biết rằng: trong hoàng cung các triều đại ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc không có đúc Cửu đỉnh nào tương tự như ở Cố đô Huế thời Nguyễn. Thậm chí, ngay tại Việt Nam, các triều đại trước đó cũng không để lại một dạng tư liệu nào như vậy.
Trình độ và kỹ thuật đúc đồng rất tinh xảo
Trên thân mỗi đỉnh đồng tại Cửu đỉnh đều được đúc tạo và khắc nổi những họa tiết, hoa văn thể hiện một trình độ rất cao, tay nghề tinh xảo của những nghệ nhân đúc đồng nước ta dưới thời nhà Nguyễn. Để làm nên Cửu đỉnh, người thợ phải làm ra những chiếc khuôn đúc với tỉ lệ chuẩn xác nhất định, đây là công đoạn quyết định đến sự thành công hay thất bại trong việc đúc Cửu đỉnh nói riêng. Do đó, đòi hỏi những nghệ nhân phải kiên trì và có sự tập trung cùng trình độ am hiểu nhất định.
Theo sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” thì Cửu đỉnh được đúc theo lối thủ công truyền thống nên khuôn đúc được tạo theo lối thủ công. Để tạo nên những khuôn đúc, người ta rất kì công trong việc lựa chọn loại đất sét phù hợp. Khuôn đúc Cửu đỉnh là những chiếc khuôn độc bản, vì để tránh sự sao chép, sau khi đúc hoàn chỉnh, các khuôn đúc đều bị phá bỏ.
Cửu Đỉnh đạt đến trình độ tinh xảo nhất của nghệ thuật đúc đồng Việt Nam thế kỷ XIX. Bằng tất cả sự khéo léo tài nghệ, thợ đúc đồng Huế đã đúc nên tuyệt tác, làm cho người Châu Âu phải kinh ngạc thán phục suốt gần 200 năm qua.
Năm 2012, Cửu đỉnh được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam. Ngày 8/5/2024, Cửu đỉnh được công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.