Sau 3 ngày làm việc liên tục, Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã thông qua 12/13 hồ sơ.
Việt Nam chính thức sở hữu thêm 2 di sản tư liệu thế giới. Đây không chỉ là tin vui đơn thuần với câu chuyện danh xưng, mà mở ra chương trình khác trong việc khai thác tiềm năng và phát huy giá trị di sản.
Văn thơ khắc trên vách đá
Thông tin từ Bộ VH,TT&DL cho biết, Kỳ họp thứ 9 của Ủy ban Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO diễn ra tại Andong (Hàn Quốc), đã thông qua hai hồ sơ gồm: Hệ thống bia ma nhai Ngũ Hành Sơn và Văn bản Hán Nôm Trường Lưu.
Bia ma nhai Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) là kho tàng di sản tư liệu bằng chữ Hán và chữ Nôm, với số lượng gồm 78 bia (76 bia chữ Hán và 2 bia chữ Nôm).
Hệ thống bia có nội dung, phong cách biểu hiện đa dạng, hình thức độc đáo, với nhiều thể loại như: Ngự bút, bia ký, tán, thơ văn, đề từ, đề danh, câu đối… của các vị vua, quan triều Nguyễn, cao tăng cùng nhiều tao nhân mặc khách đã từng dừng chân lưu đề trên vách đá, hang động từ nửa đầu thế kỷ 17.
Bia ma nhai là những tư liệu cực kỳ giá trị, chân xác và đặc sắc, thể hiện rõ tính giao thoa, hòa điệu về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các quốc gia như Nhật Bản - Trung Hoa - Việt Nam tại Việt Nam từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Đây là các tác phẩm trên đá độc đáo ấn tượng, nhiều kiểu chữ viết như: chân, hành, thảo, triện, lệ…
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Tiếng - Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Đà Nẵng cho biết: Bia ma nhai Ngũ Hành Sơn được xem là bộ sưu tập tác giả - gồm cả vua Minh Mạng với nhiều bài thơ ngự chế, 2 tấm bia khắc đại tự “Vọng Giang đài” và “Vọng Hải đài” thể hiện tư duy của người đứng đầu triều Nguyễn. Sự kiện này từng được ghi chép lại trong các tài liệu lịch sử như: Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đại Nam dư địa chí ước biên.
Ngoài ngự bút của vua Minh Mạng, bia còn thơ đề của các đại thần triều Nguyễn như: Đào Tấn, Trương Quang Đản, Nguyễn Văn Mại, Nguyễn Trọng Hợp, Nguyễn Thuật, Cao Xuân Dục… Đặc biệt, ma nhai Ngũ Hành Sơn được xem là bộ sử của Phật giáo Đàng Trong, bắt đầu với tấm bia chữ Hán có niên đại 1622 thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên.
Đại đức Thích Không Nhiên - Trưởng nhóm nghiên cứu Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán (Huế) nhận định: So với các địa chỉ lưu dấu ma nhai nổi tiếng cả nước, ma nhai Ngũ Hành Sơn vượt trội về mặt số lượng, tích hợp đa niên đại khắc bản, phong phú về thể loại, hội tập nhiều thế hệ tác giả là những danh nhân của 3 miền đất nước cũng như ngoại kiều.
Hệ thống bia ma nhai Ngũ Hành Sơn (78 bia khắc trên vách đá) phong phú và đa dạng phong cách. |
48 văn bản đặc biệt
Hai di sản vừa được ghi danh là nguồn tư liệu quý giá để nghiên cứu những giá trị truyền thống, nhấn mạnh việc tu dưỡng bản thân và giáo dục gia đình. Đồng thời là tài liệu quý để tìm hiểu việc áp dụng và thực hành chế độ khoa cử Nho học tuyển dụng người tài.
Ngoài hệ thống bia ma nhai Ngũ Hành Sơn, văn bản Hán Nôm Trường Lưu (Hà Tĩnh) được UNESCO đặc biệt chú ý. Đây là bộ sưu tập độc bản được viết bằng tay, gồm 26 sắc phong gốc do các vua triều Lê, Nguyễn ban tặng cùng 19 tờ văn bằng và 3 bức trướng bằng lụa. Tất cả được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm – trải dài từ năm 1689 đến năm 1943.
Theo Bộ VH,TT&DL, các văn bản này với giá trị nguyên gốc, độc bản, có nguồn gốc rõ ràng và các sự kiện liên quan… đã từng làm nguồn tư liệu để biên soạn sách. Vì vậy nhiều thông tin có thể kiểm chứng, đối chiếu qua các tài liệu chính sử của Việt Nam như: Đại Việt sử ký tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, cũng như qua các sách khảo cứu như: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch.
Hệ thống văn bản trên chất đa dạng: Giấy dó, giấy dó đặc biệt và lụa, chữ viết đẹp và rõ. Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu là tư liệu quý hiếm về văn hóa và giáo dục của một làng quê miền Trung, trải qua nhiều biến cố vẫn được bảo lưu tương đối hoàn chỉnh. Đây là các tư liệu gốc giúp nghiên cứu quan hệ xã hội, lịch sử phát triển của làng thời xưa, đặc biệt trong giai đoạn từ cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 20.
Các tài liệu được TS Nguyễn Huy Mỹ chủ trì sưu tầm, thẩm định từ các nhà thờ dòng họ, điện thờ... tại làng Trường Lưu (trước đây thuộc xã Trường Lộc, nay là xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc). Đặc biệt, 6/48 tài liệu có nội dung về bình đẳng giới, bao gồm 5 sắc lệnh tôn vinh vai trò của phụ nữ, như: “Thánh Mẫu”, “Thưa bà”, “Tấm gương trung thành hoàn hảo”, “Ví dụ về đức hạnh”…
“Để xây dựng thành công hồ sơ Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, chúng tôi mất khá nhiều thời gian. Không kể thời gian trước đó, thì tính từ năm 2019, sau khi tổ chức thành công hội thảo khoa học quốc tế nghiên cứu giá trị di sản Hán Nôm thế kỷ 17 - 20 của dòng họ Nguyễn Huy, việc sưu tầm, nghiên cứu, thẩm định mới bắt đầu diễn ra tập trung và mở rộng đến các dòng họ khác.
Sau 3 năm tích cực sưu tầm, nghiên cứu, nhiều lần chỉnh sửa chúng tôi đã hoàn thành hồ sơ để trình lên UNESCO trong kỳ họp thứ 9 này”, TS Nguyễn Huy Mỹ cho hay.
Với việc có thêm 2 di sản, đến nay Việt Nam đã có 9 di sản tư liệu được UNESCO ghi danh, gồm 3 di sản tư liệu thế giới và 6 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương.