Giảng viên không lo thành “máy dạy”

Giảng viên không lo thành “máy dạy”

Văn bản này cũng đồng thời phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong quản lý Nhà nước về giáo dục.

Linh hoạt hơn

Ông Hoàng Đức Minh, Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục (Bộ GD&ĐT) cho biết: Hơn 5 năm triển khai thực hiện, Thông tư số 47 là công cụ pháp lý quan trọng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học, giảng viên thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, hoạt động khoa học công nghệ; Là căn cứ để cơ sở đào tạo xây dựng kế hoạch giảng dạy, nghiên cứu khoa học (NCKH), đánh giá, xếp loại và thực hiện chế độ cho giảng viên. Việc quy định cụ thể định mức giờ chuẩn giảng dạy, kết quả thực hiện nhiệm vụ NCKH đã kịp thời định hướng, khuyến khích giảng viên tham gia NCKH, nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ công tác đào tạo.

Tuy nhiên, khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ĐH và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục ĐH có hiệu lực, Thông tư 47 bộc lộ một số bất cập trong việc thực hiện quyền tự chủ của các trường. Mặt khác, theo Luật Giáo dục nghề nghiệp, CSGD ĐH không bao gồm các trường CĐ. Do vậy, việc quy định đối tượng áp dụng tại Thông tư 47 là không phù hợp với các văn bản mới ban hành và thực tiễn hiện nay. Do đó, xây dựng Thông tư quy định chế độ làm việc của giảng viên CSGD ĐH để thay thế Thông tư 47 là cần thiết.

Chia sẻ về những điểm mới trong dự thảo Thông tư quy định chế độ làm việc của giảng viên CSGD ĐH, ông Hoàng Đức Minh cho biết: Dự thảo đã bổ sung quy định cụ thể thời gian làm việc, thời gian nghỉ hằng năm của giảng viên. Theo đó, thời gian làm việc của giảng viên trong năm học là 44 tuần để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, NCKH, bồi dưỡng, tham gia các hoạt động chuyên môn khác và được xác định theo năm học. 

Thời gian nghỉ hằng năm của giảng viên là 6 tuần, giảng viên được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo hoặc kiêm nhiệm công tác quản lý là 4 tuần. Thời gian nghỉ đã bao gồm nghỉ hè, nghỉ phép hằng năm theo quy định của Bộ luật Lao động, được hưởng nguyên lương và phụ cấp (nếu có); Các chế độ nghỉ khác thực hiện theo quy định của của Bộ luật Lao động. Căn cứ kế hoạch năm học và điều kiện cụ thể của từng đơn vị, thủ trưởng CSGD ĐH bố trí cho giảng viên nghỉ vào thời gian thích hợp.

Ngoài ra, để phù hợp với năng lực giảng dạy, NCKH của mỗi giảng viên, chiến lược phát triển của mỗi nhà trường, tăng cường thực hiện quyền tự chủ của các trường, Dự thảo cũng quy định linh hoạt định mức giờ chuẩn và NCKH, giao thủ trưởng CSGD ĐH căn cứ vào thực tế của đơn vị; mục tiêu, chiến lược phát triển nhà trường; đặc thù của môn học, ngành học để quyết định định mức giờ chuẩn của giảng viên trong một năm học cho phù hợp. 

Dự thảo Thông tư cũng bổ sung, thống nhất định mức giờ chuẩn đối với một số trường hợp được bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo hoặc kiêm nhiệm công tác Đảng, đoàn thể theo quy định hiện hành; chế độ làm việc vượt định mức và quy đổi các hoạt động chuyên môn khác ra giờ chuẩn.

Giảng viên không lo thành “máy dạy” ảnh 1
Giảng dạy và NCKH là 2 thành phần quan trọng để giảng viên thể hiện đúng vai trò trong GDĐH.

Phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng giảng dạy

Ủng hộ sửa đổi Thông tư 47, PGS.TS Phạm Thị Huyền, Trưởng Bộ môn Marketing, Khoa Marketing - Trường ĐH Kinh tế Quốc dân cho biết: Nhiệm vụ của giảng viên trong các CSGD ĐH đã thay đổi rất nhiều để thích nghi với bối cảnh mới, hướng tới hội nhập quốc tế sâu rộng. 

Dự thảo Thông tư mở đường cho CSGD ĐH chủ động xác định định mức giờ chuẩn và NCKH cho giảng viên, nghiên cứu viên của mình. Qua đó, CSGD ĐH tùy thuộc vào ngành đào tạo, chiến lược phát triển thành ĐH định hướng nghiên cứu hay định hướng ứng dụng mà xác định định mức cho từng nhóm nhiệm vụ phù hợp…

Song, theo PGS Phạm Thị Huyền, tại các CSGD ĐH, một nhóm đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng chuyên môn, là lãnh đạo các bộ môn chưa được đề cập. Công việc của lãnh đạo bộ môn trong xây dựng chương trình đào tạo, quản lý chuyên môn, kiểm soát quá trình đào tạo, nên cần bố trí đủ thời gian để họ làm các công việc này. 

“Cá nhân tôi cho rằng, trưởng bộ môn có thể được giảm từ 20 - 40% định mức giờ giảng và con số tương ứng của phó trưởng bộ môn sẽ là 15 - 30%, tùy thuộc vào số lượng môn học, số sinh viên hoặc lớp chuyên ngành, số giờ giảng mà bộ môn đó phụ trách. Con số cụ thể cũng cần được quyết định bởi thủ trưởng CSGD ĐH” - PGS Phạm Thị Huyền góp ý.

Về hoạt động NCKH, Dự thảo đã dành Điều 6 để quy định về nhiệm vụ này; thể hiện sự tin tưởng vào thủ trưởng các CSGD ĐH để trao quyền xác định định mức, việc quy đổi từ sản phẩm khoa học công nghệ để xác định mức độ hoàn thành. Song theo PGS.TS Phạm Thị Huyền, nên bổ sung thêm một số nội dung hoạt động khoa học công nghệ, như kết quả nghiên cứu, sản phẩm công bố, sở hữu trí tuệ, để có thể chỉ rõ và khuyến khích giảng viên thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ quan trọng này trong kỷ nguyên 4.0.

Trong khi đó, PGS.TS Trần Thành Nam, Chủ nhiệm khoa Các Khoa học giáo dục, Trường ĐH Giáo dục, ĐHQG Hà Nội nhận định: Điểm mới và mạnh của Dự thảo là không quy định cứng nhắc định mức giờ chuẩn của giảng viên trong một năm học; cân bằng các nhiệm vụ chính của người giảng viên. 

“Theo tôi, giảng viên ĐH có 3 nhiệm vụ chính là giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng từ chuyên môn. Ba thành tố này có quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau. Trong dự thảo đã quy định dành ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học để làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Điều này sẽ giúp giảng viên không thành “máy dạy” và cũng phù hợp với chiến lược nâng cao chất lượng nội dung giảng dạy; đưa những phát hiện nghiên cứu mới vào giảng dạy” – PGS Trần Thành Nam cho hay.

Có thể bổ sung về thời gian dành cho phục vụ cộng đồng dựa trên lĩnh vực chuyên môn sâu. Những đóng góp có ý nghĩa cũng có thể được cân nhắc quy đổi để thúc đẩy tinh thần khoa học phục vụ cuộc sống, khoa học ứng dụng trong cuộc sống. Ngoài ra, trường ĐH thuộc nhóm tinh hoa định hướng nghiên cứu và trường ĐH định hướng thực hành, quy định trách nhiệm giảng dạy, NCKH của giảng viên có khác. Vì vậy, nên cân nhắc có điều khoản được quy đổi từ giờ NCKH sang giờ giảng dạy và ngược lại, miễn sao tổng số giờ quy chuẩn tương đương công sức lao động của 44 tuần làm việc. - PGS Trần Thành Nam

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ