Giải pháp tạo chuyển biến bền vững trong dạy và học ngoại ngữ

GD&TĐ - Sáng 12/9, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội nghị tổng kết Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025. Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng chủ trì hội nghị.

Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng phát biểu tại hội nghị.
Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng phát biểu tại hội nghị.

10 kết quả nổi bật

Triển khai Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025, Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng nhấn mạnh 10 kết quả nổi bật về: mục tiêu; cơ sở vật chất; chương trình và tài liệu; trình độ đội ngũ giáo viên; cơ hội tiếp cận ngoại ngữ; hợp tác quốc tế; đổi mới phương pháp; đào tạo giáo viên; môi trường ngoại ngữ và phong trào học tập ngoại ngữ.

Cụ thể, tất cả các mục tiêu đều đạt và vượt so với Đề án; hệ thống dạy - học ngoại ngữ được tăng cường, từng bước hiện đại; chương trình, tài liệu phong phú, đa dạng, tiếp cận chuẩn quốc tế.

Trình độ đội ngũ giáo viên được nâng cao rõ rệt. Hiện 88% giáo viên tiếng Anh phổ thông đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ theo Chương trình GDPT 2018 (tăng 22% so với năm học 2017-2018); cơ sở giáo dục cao đẳng, đại học trực thuộc Bộ GD&ĐT, 98% giảng viên tiếng Anh đạt chuẩn bậc 5 trở lên (tăng 7,6% so với năm học 2023-2024).

Học sinh được tiếp cận ngoại ngữ ngày càng rộng rãi. 63/63 tỉnh, thành đã triển khai chương trình làm quen tiếng Anh cho trẻ mẫu giáo (28,5% trẻ tham gia); 99,8% học sinh từ tiểu học đến THPT học chương trình tiếng Anh; 41 tỉnh, thành tổ chức dạy các ngoại ngữ khác cho hơn 41.000 học sinh.

Hợp tác quốc tế đa dạng, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng. Dạy học, kiểm tra, đánh giá liên tục được cải tiến. Giáo viên chuyên ngành ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, được chú trọng bồi dưỡng, nâng cao chất lượng.

Môi trường ngoại ngữ được mở rộng, đa dạng, phong phú với nhiều giải pháp. Về phong trào học tập, hình thành nhu cầu và xu thế học ngoại ngữ rộng khắp, mạnh mẽ hơn giai đoạn trước.

Thứ trưởng trân trọng ghi nhận, biểu dương, đánh giá cao nỗ lực của Ban Quản lý Đề án Ngoại ngữ Quốc gia; các bộ, ngành, địa phương, Sở GD&ĐT, cơ sở giáo dục, đặc biệt đội ngũ giáo viên đã tích cực, chủ động triển khai Đề án.

Thứ trưởng cho biết, tại Hội nghị này, Bộ GD&ĐT khen thưởng 8 tập thể, 10 cá nhân. So với công lao, đóng góp của các thầy cô và số lượng đơn vị, con số này còn rất khiêm tốn. Do thời gian gấp, công tác tổng hợp chưa được đầy đủ, việc khen thưởng chưa phản ánh hết những nỗ lực chung.

Thứ trưởng đề nghị các Sở GD&ĐT, cơ sở giáo dục, các bộ, ngành tiếp tục tham mưu cho cấp có thẩm quyền để ghi nhận, khen thưởng kịp thời hơn nữa đối với các tập thể, cá nhân có nhiều đóng góp. Đây sẽ là nguồn động viên, tạo thêm động lực để toàn ngành tiếp tục phấn đấu trong thời gian tới.

img-8453.jpg
Hội nghị tổng kết Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2017-2025.

Thẳng thắn nhìn nhận hạn chế, thách thức

Bên cạnh kết quả đạt được, Thứ trưởng đồng thời chỉ ra một số hạn chế trong dạy và học ngoại ngữ như sau:

Thứ nhất, năng lực ngoại ngữ của giáo viên và học sinh, đặc biệt là tiếng Anh theo chuẩn đầu ra, vẫn chưa đạt như mong muốn, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu.

Thứ hai, thời gian qua, việc giảng dạy mới chủ yếu tập trung vào “học ngoại ngữ” mà chưa thực sự chú trọng “học ngôn ngữ”. Dù nhiều học sinh đã đạt chứng chỉ quốc tế hoặc chuẩn quy định, nhưng năng lực sử dụng ngoại ngữ như một ngôn ngữ thứ hai trong học tập, công việc và đời sống hàng ngày vẫn còn hạn chế.

Thứ ba, qua theo dõi, đánh giá cho thấy tác động của Đề án đối với bậc mầm non và phổ thông chưa thật sự cân xứng so với giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Đây là khoảng trống cần được quan tâm nhiều hơn trong thời gian tới.

Thứ tư, chính sách dành cho giáo viên ngoại ngữ nói chung, giáo viên tiếng Anh và giáo viên giảng dạy các môn khoa học khác bằng tiếng Anh chưa được chú trọng đúng mức, chưa thật sự phù hợp.

Cuối cùng, công tác xã hội hóa trong lĩnh vực dạy và học ngoại ngữ cần tiếp tục được đẩy mạnh hơn nữa để tạo thêm nguồn lực và động lực phát triển.

Thứ trưởng nhấn mạnh, chưa bao giờ giáo dục nói chung và dạy học ngoại ngữ nói riêng có nhiều thuận lợi như hiện nay. Tuy nhiên, cùng với đó cũng có những thách thức đang đặt ra.

Với quy mô dân số hơn 100 triệu người, so sánh với các quốc gia chỉ vài triệu hay chục triệu dân, thách thức đối với đội ngũ giáo viên và toàn ngành Giáo dục là vô cùng lớn. Địa bàn trải rộng, sự khác biệt vùng miền cũng đặt ra yêu cầu thu hẹp khoảng cách, bảo đảm công bằng trong tiếp cận ngoại ngữ. Bên cạnh đó, phương pháp dạy học truyền thống và nhận thức về ngoại ngữ chưa theo kịp yêu cầu mới. Chẳng hạn, quan niệm rằng chỉ khi tiếng Anh trở thành môn thi bắt buộc thì việc dạy và học mới được chú trọng, là cách tiếp cận chỉ phù hợp ở giai đoạn trước, nhưng không còn đáp ứng xu thế hiện nay.

img-8178.jpg
Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng: phải tạo ra phong trào, hình thành xu hướng và khơi dậy nhu cầu học ngoại ngữ.

Thiết kế Đề án mới với tinh thần đột phá, bám sát tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW

Thời gian tới, Thứ trưởng đề nghị tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:

Trước hết, cần phát huy tối đa những kết quả Đề án đã đạt được. Tổng kết không có nghĩa là khép lại, mà quan trọng là phải biết giữ gìn, khai thác và sử dụng những sản phẩm của Đề án một cách hiệu quả. Ban Quản lý Đề án cần chủ trì, phối hợp với các đơn vị chuyên môn tham mưu cho Bộ, tổng hợp kết quả và xây dựng cơ chế dùng chung, để giá trị của Đề án tiếp tục được lan tỏa.

Thứ hai, các cơ sở giáo dục, các Sở GD&ĐT, cùng các bộ, ngành - trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình - tham mưu cho lãnh đạo đơn vị để tổng kết, đánh giá việc triển khai chương trình một cách nghiêm túc, khoa học, gọn gàng nhưng hiệu quả, qua đó tạo thành phong trào thiết thực. Qua đó, nhìn lại cách chỉ đạo, tổ chức trong thời gian qua, rút ra kinh nghiệm và xác định hướng đi phù hợp cho giai đoạn mới.

Nhân đây, Thứ trưởng cũng nhấn mạnh một số bài học sau quá trình triển khai Đề án dạy và học ngoại ngữ.

Bài học đầu tiên là về nhận thức và tư duy. Nghị quyết số 71-NQ/TW đã xác định “đột phá” phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế. Vì vậy, trong quá trình tổng kết Đề án Ngoại ngữ cần quan tâm sâu sắc đến vấn đề này. Một yêu cầu cốt lõi là thay đổi tư duy từ “học để thi” sang “học vì nhu cầu thực tiễn”. Ngoại ngữ phải trở thành nhu cầu tự thân, động lực hội nhập, thay vì chỉ gắn với thi cử. Bên cạnh đó, cần sớm có cơ chế, chính sách phù hợp đối với đội ngũ giáo viên ngoại ngữ, để bảo đảm thầy cô yên tâm gắn bó và phát huy năng lực trong bối cảnh mới.

Các bài học liên quan đến xây dựng đề án phải thiết thực, hiệu quả và khả thi; bài học về tầm nhìn và trách nhiệm của người đứng đầu; về kiểm tra chuẩn đầu ra, gắn với chuẩn quốc tế và công tác kiểm định chất lượng; bài học về xây dựng đội ngũ và xây dựng môi trường sử dụng ngôn ngữ… cũng được Thứ trưởng nhấn mạnh.

Thứ ba, Ban Quản lý Đề án tiếp tục chủ trì xây dựng Đề án Dạy và học ngoại ngữ quốc gia giai đoạn 2026-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây sẽ là một đề án mới, bên cạnh định hướng riêng về việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, và phải được thiết kế với tinh thần đột phá, bám sát tinh thần Nghị quyết 71.

img-8993.jpg
img-8881.jpg
Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT cho các tập thể, cá nhân có đóng góp xuất sắc trong triển khai Đề án.

Thứ tư, cần nghiên cứu xây dựng chế độ làm việc cho giảng viên và giáo viên dạy các môn học khác bằng ngoại ngữ. Đây là vấn đề rất quan trọng.

“Thực tế lâu nay, chúng ta thiếu giáo viên tiếng Anh, ngoại ngữ, công nghệ thông tin cũng như một số bộ môn đặc thù như mỹ thuật, âm nhạc. Nguyên nhân quan trọng là giáo viên tiếng Anh, công nghệ thông tin có nhiều cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp, nên sau khi đào tạo, nhiều người không vào hệ thống trường học. Do đó, chính sách không chỉ dừng ở khâu thu hút mà quan trọng hơn là giữ chân đội ngũ. Đây là yêu cầu cấp thiết, cần sớm có căn cứ pháp lý, chính trị và khoa học để đề xuất, xây dựng”, Thứ trưởng chia sẻ.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định liên quan, như cơ chế tập huấn giáo viên, chế độ đấu thầu các chương trình bồi dưỡng, hay vấn đề giấy phép lao động cho giáo viên nước ngoài. Những vướng mắc thực tiễn này đòi hỏi sự tham mưu kịp thời để chính sách phù hợp hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giáo viên ngoại ngữ và giảng dạy bằng ngoại ngữ.

Vấn đề quan trọng là phải tạo ra phong trào, hình thành xu hướng và khơi dậy nhu cầu học ngoại ngữ. Các giải pháp hành chính chỉ có tác dụng trong phạm vi nhất định, không đủ để tạo chuyển biến bền vững.

Trong bối cảnh thế giới phẳng, nếu thiếu tiếng Anh, thiếu công nghệ thông tin và chuyển đổi số, chúng ta sẽ tự thu hẹp mình lại. Khi đó “vùng an toàn” chỉ dừng ở phạm vi làng xã hay một địa phương, thay vì mở rộng ra toàn cầu. Ngoại ngữ chính là “hộ chiếu” để bước ra thế giới. Vì vậy, mỗi cán bộ quản lý, mỗi thầy cô giáo cần nhận thức rõ điều này, coi việc trang bị ngoại ngữ và tin học là hành trang tất yếu để hội nhập.

Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ