Cửu đỉnh Huế “trên đường” vào di sản tư liệu thế giới

GD&TĐ - Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã hoàn thiện hồ sơ đệ trình UNESCO ghi danh Cửu đỉnh Huế là di sản tư liệu thế giới.

Cửu đỉnh trước Thế Miếu – nơi thờ các vua nhà Nguyễn. Nguồn ảnh: Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.
Cửu đỉnh trước Thế Miếu – nơi thờ các vua nhà Nguyễn. Nguồn ảnh: Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.

Cửu đỉnh được coi là vật báu chốn thâm nghiêm trước Thế Miếu - nơi thờ các vua nhà Nguyễn. Cửu đỉnh được ví như tượng đài, tượng trưng cho sự vĩnh trường của vương triều, thể hiện quyền uy vững mạnh của một triều đại thống nhất.

Trọng khí triều Nguyễn

Theo Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, cửu đỉnh được vua Minh Mạng cho khởi công đúc từ tháng 10 năm Ất Mùi (1835) đến tháng Giêng năm Đinh Dậu (1837). Với chức năng là trọng khí được đặt trước sân Thế Miếu của nhà Nguyễn, mỗi đỉnh theo chủ ý của vua Minh Mạng là thụy hiệu của các vua triều Nguyễn.

Cửu đỉnh được ví như một bộ bách khoa thư bằng hình ảnh được ghi bằng ngôn ngữ tạo hình với 162 họa tiết được chạm nổi tinh xảo. Các nghệ nhân thời vua Minh Mạng đã thể hiện khái quát nhưng súc tích cảnh vật nổi tiếng của các miền đất nước.

Cửu đỉnh Huế được hiểu như là bộ dư địa chí. Những hình ảnh về biển đảo được khắc trên bộ Cửu đỉnh (biển Đông ở Cao đỉnh, biển Nam ở Nhân đỉnh và biển Tây ở Chương đỉnh) sẽ là nguồn tư liệu quý về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Theo tư liệu lịch sử, từ tháng 5 năm Bính Thân (tháng 6/1836), các nghệ nhân triều đình Huế đã đúc xong phần thô của chín cái đỉnh. Còn phần quan trọng nhất là các họa tiết để thể hiện nội dung, được vua Minh Mạng sai Nội các tuyển chọn nghệ nhân, tập trung sức lực, trí tuệ của cả nước về Kinh đô.

Bằng những dụng cụ tự chế để sử dụng được thích hợp hơn trong việc trau chuốt, tạo nên các đường nét trên khuôn hình. Và bằng phương pháp thủ công như tỉa, gọt, đục đẽo, chạm trổ… phải mất tám tháng thì 162 họa tiết trên Cửu đỉnh mới được hoàn thành.

Từ những họa tiết, có thể thấy các nghệ nhân thời Minh Mạng đã thể hiện nhiều cảnh vật nổi tiếng: Tinh tú, núi sông, cửa biển, lãnh hải, cửa ải, cây cối, hoa đỏ, động vật, binh khí, xe thuyền…

Nếu ở Tuyên đỉnh có sông Hồng thì Huyền đỉnh có sông Cửu Long và Nhân đỉnh có sông Hương. Nếu Cao đỉnh có hổ trên rừng, thì Nhân đỉnh có cá voi dưới biển. Các hình ảnh ở Cửu đỉnh đều biểu hiện những cảnh vật rất thật và quen thân với dân tộc Việt Nam.

Trải qua thời gian thăng trầm của đất nước và thời cuộc, chín đỉnh vẫn là những bản gốc, duy nhất hiện vẫn đặt ở vị trí như ban đầu khi mới tạo thành. Những hiện vật gốc, hoàn toàn chưa có sự thay đổi, điều chỉnh hay làm mới chính là tiêu chí xác thực của một di sản tư liệu, là điều kiện cần và đủ để Huế lập hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản ký ức thế giới.

“Độc bản, duy nhất”

Theo ông Võ Lê Nhật - Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Cửu đỉnh là dạng “độc bản, duy nhất”, không thể thay thế. Đây còn là một bộ sưu tập độc nhất về hình ảnh đúc nổi, thư pháp, tác phẩm mỹ thuật vô cùng đa dạng, phong phú và có giá trị to lớn.
Với những giá trị và ý nghĩa của bảo vật quốc gia Cửu đỉnh, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tiến hành các bước hoàn thiện hồ sơ đệ trình UNESCO ghi danh Cửu đỉnh là di sản tư liệu thế giới.

Theo các chuyên gia khảo cổ, Cửu đỉnh gắn liền với con số 9 - số thiêng theo quan niệm phương Đông, tượng trưng cho trời, sự hoàn thiện tuyệt đối, quyền uy và sức mạnh của người đứng đầu thiên hạ.

Điều đó phần nào lý giải tại sao số 9 là tư tưởng chủ đạo vua Minh Mạng trong việc đúc Cửu đỉnh. Theo đó, tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và sắp xếp theo số 9. Chín tinh tú trong vũ trụ, chín ngọn núi lớn, chín con sông lớn, chín cửa biển, cửa quan, chín con thú lớn bốn chân, chín linh vật…

Qua phân tích, các nhà khảo cổ thấy rằng trên Cửu đỉnh cũng có những hình ảnh sản vật liên quan đến thời cam go của vương triều nhà Nguyễn. Cây Nam trân (lòn bon) được khắc chạm trên Nhân đỉnh.

Tương truyền, những năm cuối thế kỷ 18, khi bị quân Tây Sơn săn đuổi, Nguyễn Phúc Ánh ẩn náu ở nguồn sông Vu Gia (rừng Quảng Nam), nhờ ăn quả lòn bon này mà sống sót.

Khi lên ngôi vua Gia Long đã đặt tên cho cây trái này là phụng quân mộc (cây gặp vua). Có lẽ vì thế mà vua Minh Mạng cho khắc cây lòn bon vào Nhân đỉnh. Ngoài cây lòn bon, vua còn cho khắc hình ảnh cá sấu trên Chương đỉnh.

Tương truyền Nguyễn Phúc Ánh qua sông, nhờ cá sấu cản mà không sa vào tay kẻ thù. Khi vượt biển ra đảo Thổ Chu, thuyền của Ánh không bị lật nhờ rắn thần giữ thăng bằng.

Với chức năng là trọng khí được đặt trước sân Thế Miếu của nhà Nguyễn, tên gọi của mỗi đỉnh theo chủ ý của vua Minh Mạng tượng trưng cho thụy hiệu của các vua triều Nguyễn.

Cao đỉnh chính là thụy hiệu của Thế tổ Cao hoàng đế, Nhân đỉnh là thụy hiệu của vua Minh Mạng, Chương đỉnh là thụy hiệu của vua Thiệu Trị, Anh đỉnh là thụy hiệu của vua Tự Đức, Nghị đỉnh là thụy hiệu vua Kiến Phúc, Thuần đỉnh là thụy hiệu của vua Đồng Khánh, Tuyên đỉnh là thụy hiệu của vua Khải Định.

Các vua Dục Đức, Hiệp Hòa bị Tôn Thất Thuyết phế truất, vua Hàm Nghi dưới sự giúp sức của Tôn Thất Thuyết đã xuống dụ Cần Vương kêu gọi văn thân, sĩ phu đứng lên giúp vua cứu nước chống Pháp.

Hai cha con vua Thành Thái, Duy Tân bị người Pháp phế truất và lưu đày, vua Bảo Đại thoái vị... đều không được đặt tên miếu hiệu và thụy hiệu. Do đó, tên của Dụ đỉnh và Huyền đỉnh không trở thành thụy hiệu của bất kì vị vua nào triều Nguyễn.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ