Tuy nhiên, từ năm 1945, theo Cụ Hồ tham gia kháng chiến, ông đã ngừng công việc nghiên cứu mà ông đam mê suốt thời tuổi trẻ, để xây dựng và phát triển nền giáo dục nước nhà. Những câu chuyện về Bộ trưởng, nhà nhân học Nguyễn Văn Huyên có lẽ kể mãi không hết…
Từ tầm nhìn nhân học vì tương lai dân tộc, đất nước
Ngay khi quyết định rời bỏ niềm đam mê nghiên cứu dân tộc học, ông Nguyễn Văn Huyên liền dành tâm sức vào việc xây dựng đường hướng cho một nền đại học mới.
Ở cương vị Tổng Giám đốc Đại học vụ, lãnh đạo trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngay sau Cách mạng Tháng Tám, ông Huyên đã xác định vị trí rõ ràng của nền đại học với tấm lòng của một người yêu nước và trí tuệ, tầm nhìn của một nhà nhân học, nhà bác học.
Ông phát biểu trong buổi lễ khai giảng đại học ngày 15/11/1945: “Nền đại học là một trong những nền tảng của công cuộc kiến thiết quốc gia…
Trong giờ phút nghiêm trọng này của tiền đồ Tổ quốc, dân tộc Việt Nam, ngoài công cuộc đấu tranh bằng xương máu trên chiến địa, còn nỗ lực tham gia vào công cuộc tiến triển văn hóa nhân loại.
Chúng tôi muốn rằng nền đại học mới này là một lực lượng mạnh trong những lực lượng chiến đấu của dân tộc Việt Nam. Chúng tôi muốn nó là một thành lũy để trường kỳ kháng chiến, phục hồi hoàn toàn lãnh thổ và giải phóng tinh thần cho dân tộc chúng tôi - một dân tộc văn hiến có ngoài nghìn năm lịch sử độc lập và tự gây đắp nên một nền văn minh đặc sắc ven biển Thái Bình Dương này”.
Ông Huyên cũng nhận định: “Trường đại học Việt Nam sau bao nhiêu năm bị kiềm chế cần phải cấp bách tiến một bước dài”. Ông có một tầm nhìn rộng rãi khi xác định đối tượng đào tạo là thanh niên ưu tú thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau, không bị ràng buộc, hạn hẹp về giai cấp:
“Chúng tôi cảm thấy có cùng một trách nhiệm luyện tập tinh thần cho một số khả quan đại chúng chọn ở mọi tầng lớp dân chúng, không kỳ là trai hay gái, là quý hay tiện, là giàu hay nghèo để giúp vào công cuộc xây dựng nền văn hóa mới cho nước Việt Nam…
Chúng tôi cảm thấy có cùng một trách nhiệm đào tạo một số đông những người có đủ đức tính và khả năng để lãnh đạo cho quần chúng, những bậc quân tử, nếu các ngài cho phép tôi dùng một chữ cổ, trong nghĩa cổ, của một nền văn minh phương Đông, những người vừa biết trau dồi về kiến thức để có thể tự mình biết phẩm bình mọi lực lượng của văn minh, vừa biết xử sự về thực tế để có thể đem áp dụng ngay trong đời sống những hiểu biết của mình để cùng anh chị em đồng bào các giới nêu cao ngọn quốc kỳ trong mọi cơn giông tố, và trong mọi cuộc hội họp quốc tế về văn hóa trên nền hòa bình, công lý, tự do, hạnh phúc, bác ái xán lạn của nhân loại mai sau”.
Và còn rất nhiều những kế hoạch cho các công việc nghiên cứu và phát triển văn hóa do Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên vạch ra cho thấy một tầm nhìn dài hạn cho tương lai dân tộc của một nhà nghiên cứu khoa học xã hội trong cương vị quản lý.
Đến nhân học vì con người
30 năm làm công tác quản lý giáo dục, Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên không lúc nào ngừng nghỉ việc bám sát các cơ sở giáo dục, giao lưu, trò chuyện với các cán bộ quản lý giáo dục các cấp, với các thầy cô giáo từ thành phố, đồng bằng đến các vùng miền núi khó khăn nhất, ở cả những thời điểm căng thẳng trong chiến tranh.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều lần ông đã đạp xe từ Tuyên Quang vào tận Thanh Hóa, Nghệ An… Hay trong kháng chiến chống Mỹ, bước chân ông từng đến Vĩnh Linh, Quảng Trị, lên tận Kỳ Sơn (Nghệ An) hay Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang)…
Những chuyến đi như thế giúp ông nắm chắc tình hình giáo dục ở các địa phương cũng như hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của giáo viên để ra những quyết sách đúng và hợp lòng người.
Ông Lê Văn Giạng - Nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục, một đồng nghiệp với ông Huyên từ thời kháng chiến chống Pháp - nhận xét: “Ông là vị Bộ trưởng của nước ta chăm đi thăm các cơ sở ở địa phương nhất”.
Ông Nguyễn Văn Huy - Con trai GS Nguyễn Văn Huyên - kể tôi nghe một câu chuyện mới đây:
Chuyện rằng, xưa ông Vũ Văn Giao là một thanh niên Hà Nội, học ở trong thành thời kháng chiến chống Pháp. nhà ở phố Quan Thánh. Thủ đô được giải phóng 1954 khi ông học xong trung học chuyên khoa năm thứ 2. Ông xin vào Trường Sư phạm Sơ cấp.
Học xong nghĩ mình kháng chiến ở trong thành, nay Nhà nước có kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc nên ông xung phong đi dạy học ở miền núi. Tháng 9/1957, ông được phân công lên khu Lào - Hà - Yên.
Một lần vào năm 1963, Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên lên thăm Yên Bái. Ông Giao được ông Trưởng ty cho cùng ngồi tiếp chuyện. Ông trình bày với Bộ trưởng hoàn cảnh gia đình mình và ngỏ ý xin về Hà Nội. Bộ trưởng nói sẽ xem xét.
Chỉ trong vòng 2 tháng đã làm xong thủ tục để về Hà Nội. “Tháng 1 năm 1964, tôi từ giã Yên Bái về dạy ở Trường Khâm Thiên, Hà Nội. Cuộc đời tôi thay đổi hẳn”.
Có một câu chuyện khác. Ông Đinh Gia Viên là một giáo viên trẻ lên Cao Bằng ngay sau khi tốt nghiệp ĐHSP Hà Nội năm 1957, đến tận năm 1996 mới về Hà Nội.
Ông Viên kể: “Đầu năm 1960 ngành GD Cao Bằng mở “chiến dịch tiến quân diệt dốt vùng cao”. Sau Tết âm lịch, đầu năm 1960, Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đích thân lên Cao Bằng để kiểm tra tình hình mọi mặt giáo dục....
Tôi nhớ, trong một cuộc họp vào buổi tối giữa Bộ trưởng và đồng chí Trưởng ty GD, tôi có may mắn được tham dự. Sau khi nghe giới thiệu, Bộ trưởng quay sang hỏi tôi: “Anh Viên quê ở đâu?”. “Dạ, thưa Bộ trưởng, cháu quê ở Hà Nội”.
Bộ trưởng tỏ ý rất vui, hướng về đồng chí Trưởng ty nói: “Anh Du này! Anh Viên quê ở Hà Nội mà xung phong lên đây công tác. Thế là quý lắm, hiếm lắm đấy.
Các anh phải lo cho anh Viên chu đáo, động viên anh gắn bó với miền núi để anh yên tâm công tác. Anh Viên nếu chưa có gia đình riêng, anh Du phải lo vợ con cho anh. Nếu anh không lo được tôi cách chức anh!!!”.
Nói xong Bộ trưởng bắt tay tôi và cười rất thoải mái. Đồng chí Trưởng ty của tôi đứng dậy trả lời: “Thưa Bộ trưởng, về đồng chí Viên, chúng tôi có chủ trương, kế hoạch cả rồi”.
Ông Bộ trưởng lại hỏi: “Thế anh Viên lên đây được mấy năm rồi?”. Đồng chí Trưởng ty trả lời: “Được 3 năm rồi ạ”. “Ba năm rồi mà mới có chủ trương, kế hoạch thôi ư? Sao chậm thế?”.
“Thưa Bộ trưởng, chậm nhưng chắc là được”. “Thế cũng được, nhưng chắc chắn không có nghĩa là lề mề đấy! Cơ quan sẽ phải cố gắng giúp đỡ anh Viên mọi mặt”.
Tôi biết đấy chỉ là những câu nói vui, động viên của Bộ trưởng, nhưng dù sao cũng làm tôi phấn khởi, tin tưởng vào sự quan tâm của cấp trên đối với tôi, đối với anh em giáo viên từ miền xuôi lên phục vụ miền núi”.
Câu chuyện ông Giao và ông Viên cho thấy, cách xử lý của Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên có khác nhau, một mặt là do thời điểm năm 1960 Nhà nước chưa có chủ trương cho giáo viên trở về quê sau một thời gian phục vụ miền núi, nhưng mặt khác, cũng là do Bộ trưởng có sự quan tâm sâu sát, tùy hoàn cảnh mà có quyết sách cụ thể hợp lý hợp tình. Riêng với con cháu và anh em trong nhà, Bộ trưởng lại luôn động viên ổn định, yên tâm phục vụ ở miền núi.
Những câu chuyện như vậy về GS Bộ trưởng, nhà nhân học Nguyễn Văn Huyên trong suốt 30 năm làm giáo dục của ông, có lẽ kể mãi không hết…